Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Những dạng cơ bản của tiểu thuyết tâm lý trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945 (qua Tố Tâm, Lấy nhau vì tình, Bướm trắng, Sống mòn)
PREMIUM
Số trang
218
Kích thước
1.9 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
816

Những dạng cơ bản của tiểu thuyết tâm lý trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945 (qua Tố Tâm, Lấy nhau vì tình, Bướm trắng, Sống mòn)

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

ĐÀO ĐỨC DOÃN

NHỮNG DẠNG CƠ BẢN CỦA

TIỂU THUYẾT TÂM LÝ TRONG VĂN HỌC

VIỆT NAM

TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN 1945

(QUA TỐ TÂM, LẤY NHAU VÌ TÌNH, BƢỚM TRẮNG, SỐNG MÒN)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2011

2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

ĐÀO ĐỨC DOÃN

NHỮNG DẠNG CƠ BẢN CỦA

TIỂU THUYẾT TÂM LÝ TRONG VĂN HỌC VIỆT

NAM

TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN 1945

(QUA TỐ TÂM, LẤY NHAU VÌ TÌNH, BƢỚM TRẮNG, SỐNG MÒN)

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 62.22.34.01

`

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:

GS.TS. TRẦN ĐĂNG XUYỀN

HÀ NỘI - 2011

3

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 3

1. Lí do chọn đề tài 3

2. Lịch sử vấn đề 4

3. Giới hạn đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và

đóng góp mới của luận án 16

4. Kết cấu luận án 19

Chƣơng I

NHỮNG TIỀN ĐỀ CHỦ YẾU VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA

TIỂU THUYẾT TÂM LÝ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ ĐẦU

THẾ KỶ XX ĐẾN 1945 20

1.1. Những tiền đề chủ yếu của tiểu thuyết tâm lý Việt Nam nửa đầu

thế kỷ XX 20

1.1.1. Hoàn cảnh kinh tế - xã hội và văn hóa 20

1.1.2. Con người cá nhân và sự ra đời tiểu thuyết tâm lý 22

1.1.3. Văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX và sự ra đời tiểu thuyết tâm lý 29

1.2. Quá trình phát triển tiểu thuyết tâm lý Việt Nam từ đầu thế kỷ

XX đến 1945 34

1.2.1. Bức tranh toàn cảnh tiểu thuyết tâm lý Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX 34

1.2.2. Những chặng đường phát triển và các dạng cơ bản của tiểu thuyết

tâm lý Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX 40

Chƣơng II

NHỮNG DẠNG CƠ BẢN CỦA TIỂU THUYẾT TÂM LÝ TRONG

VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN 1939 50

2.1. Tố Tâm và tiểu thuyết tâm lý tình cảm 50

2.1.1. Tố Tâm và con người tâm lý tình cảm 50

2.1.2. Tố Tâm và nội dung tâm lý trong tiểu thuyết tâm lý tình cảm 58

2.1.3. Tố Tâm và các phương thức, phương tiện nghệ thuật chủ yếu trong 65

4

tiểu thuyết tâm lý tình cảm

2.2. Lấy nhau vì tình và tiểu thuyết tâm lý bản năng 79

2.2.1. Lấy nhau vì tình và con người tự nhiên bản năng 79

2.2.2. Lấy nhau vì tình và nội dung tâm lý trong tiểu thuyết tâm lý bản năng 86

2.2.3. Lấy nhau vì tình và các phương thức, phương tiện nghệ thuật chủ yếu

của tiểu thuyết tâm lý bản năng 93

Chƣơng III

NHỮNG DẠNG CƠ BẢN CỦA TIỂU THUYẾT TÂM LÝ TRONG

VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ 1939 ĐẾN 1945 110

3.1. Bƣớm trắng và tiểu thuyết tâm lý ý thức cá nhân khép kín 110

3.1.1. Bướm trắng và con người cá nhân khép kín 110

3.1.2. Bướm trắng và nội dung tâm lý trong tiểu thuyết tâm lý ý thức cá

nhân khép kín 116

3.1.3. Bướm trắng và các phương thức, phương tiện nghệ thuật chủ yếu

trong tiểu thuyết tâm lý ý thức cá nhân khép kín 126

3.2. Sống mòn và tiểu thuyết tâm lý nhân cách 143

3.2.1. Sống mòn và con người nhân cách 143

3.2.2. Sống mòn và nội dung tâm lý trong tiểu thuyết tâm lý nhân cách 153

3.2.3. Sống mòn và các phương thức, phương tiện nghệ thuật chủ yếu trong

tiểu thuyết tâm lý nhân cách 165

KẾT LUẬN 195

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN

LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ 199

TÀI LIỆU THAM KHẢO 200

5

MỞ ĐẦU

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

1.1. Văn học là nhân học, là phương tiện khám phá thế giới tâm hồn đầy bí

ẩn của con người. Cho nên, tác phẩm văn học dù ở thời đại nào cũng miêu tả tâm lý,

miêu tả thế giới nội tâm nhân vật. Tâm lý là vấn đề muôn thủa của văn học.

Mặc dù văn học thời đại nào cũng miêu tả tâm lý, nhưng trong văn học cổ và

trung đại, trọng tâm của tác phẩm tự sự dồn về phía sự kiện, biến cố và hành động

của nhân vật, còn sự miêu tả tâm lý chỉ giữ vai trò thể hiện tính cách và biến cố xã

hội. Phải đến văn học hiện đại, quá trình tâm lý mới trở thành đối tượng miêu tả,

phân tích trực tiếp của tác phẩm tự sự. Tiểu thuyết tâm lý, vì vậy, vừa là sản phẩm

của văn học hiện đại, vừa là dấu hiệu trưởng thành của nền văn học dân tộc. Nó là

một hiện tượng lịch sử.

Chọn đề tài nghiên cứu những dạng cơ bản của tiểu thuyết tâm lý Việt Nam

qua bốn tác phẩm: Tố Tâm (1922) của Hoàng Ngọc Phách, Lấy nhau vì tình (1937)

của Vũ Trọng Phụng, Bướm trắng (1939) của Nhất Linh, Sống mòn (1944) của Nam

Cao, luận án nhằm một mặt khẳng định thành tựu của văn học dân tộc giai đoạn từ

đầu thế kỷ XX đến 1945 trên cơ sở những cứ liệu cụ thể, mặt khác góp phần làm

sáng tỏ hơn sự vận động của lịch sử văn học nói chung, của tiểu thuyết tâm lý nói

riêng - một sự vận động với những qui luật nội tại của nó theo hướng hiện đại hoá.

1.2. Tiểu thuyết tâm lý không chỉ là một hiện tượng lịch sử mà còn là một

hiện tượng loại hình. Mỗi tác phẩm là một chỉnh thể nghệ thuật không lặp lại.

Đồng thời, nhiều tác phẩm lại có những yếu tố tương đồng, những đặc điểm chung,

tạo thành các kiểu, các dạng tiểu thuyết tâm lý khác nhau. Nghiên cứu tiểu thuyết

tâm lý như một hiện tượng loại hình sẽ giúp đưa ra những khái quát lý thuyết về

những kiểu, dạng tiểu thuyết tâm lý, từ đó có thêm cơ sở để khám phá giá trị các

tiểu thuyết tâm lý trong một tương quan mới - tương quan về phương diện loại hình.

6

Ở ta, việc nghiên cứu tiểu thuyết tâm lý giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến 1945

đã đạt được nhiều thành tựu trên các phương diện ngôn ngữ, nhân vật, kết cấu, nội

dung tư tưởng,... nhưng lại chưa thật sự quan tâm đến phương diện loại hình.

Những gì mà nghiên cứu, phê bình đạt được chủ yếu mới chỉ là những khám phá,

phát hiện về giá trị nội dung và hình thức của các tác phẩm cụ thể. Chúng ta vẫn

còn thiếu những công trình thể hiện một cái nhìn toàn diện, xem tiểu thuyết tâm lý

như là một loại hình văn học riêng, vận động như một dòng chảy riêng trong nguồn

mạch chung của văn học dân tộc theo hướng hiện đại hoá. Nói cách khác, ở ta, việc

nghiên cứu tiểu thuyết tâm lý như là những hình thức thể loại mang tính nội dung

chưa được chú ý đúng mức. Bởi vậy, nghiên cứu tiểu thuyết tâm lý, vừa như một

hiện tượng lịch sử, vừa như một hiện tượng loại hình, theo chúng tôi là cần thiết và

vẫn còn đang là một công việc có nhiều ý nghĩa, hứa hẹn nhiều đóng góp mới.

1.3. Tiểu thuyết tâm lý giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến 1945 chiếm một vị trí

quan trọng trong chương trình giảng dạy ở các trường phổ thông và đại học. Do

những hạn chế như đã nói ở trên trong nghiên cứu về tiểu thuyết tâm lý nên giảng

dạy văn học vẫn chỉ dừng ở phân tích từng tác phẩm riêng biệt. Các tiểu thuyết tâm

lý đã được soi sáng và phân tích trong nhiều mối tương quan khác nhau như tương

quan với trào lưu, với phương pháp sáng tác, với phong cách nhà văn,v.v... nhưng

lại chưa được đặt trong quan hệ với các tác phẩm cùng dạng để xem xét từ góc độ

loại hình. Vì vậy, việc nghiên cứu các dạng tiểu thuyết tâm lý ở đề tài này sẽ giúp

cho việc giảng dạy có thêm cơ sở để khám phá tiểu thuyểt tâm lý với một góc nhìn

mới.

Đối với giới sáng tác và công chúng yêu thích tiểu thuyết tâm lý, luận án còn

hy vọng rằng những tư liệu và kết luận của luận án sẽ trở thành tài liệu tham khảo

bổ ích, vừa có thể góp phần tác động đến các nhà tiểu thuyết đương đại, vừa có thể

góp phần vào quá trình tiếp nhận của công chúng cả với các tiểu thuyết tâm lý giai

đoạn nửa đầu thế kỷ XX, cả với các tiểu thuyết trong giai đoạn hiện nay.

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Do nghiên cứu các dạng tiểu thuyết tâm lý trên cơ sở khảo sát bốn tiểu thuyết

tiêu biểu là Tố Tâm, Lấy nhau vì tình, Bướm trắng, Sống mòn nên chúng tôi chỉ

7

trình bày trong phần Lịch sử vấn đề các ý kiến trực tiếp bàn về nghệ thuật miêu tả

tâm lý và dạng tiểu thuyết tâm lý của bốn tác phẩm này.

2.1. Về Tố Tâm và tiểu thuyết tâm lý tình cảm

Bài viết đầu tiên về Tố Tâm là bài Quyển Tố Tâm ra đời của Lê Hữu Phúc,

viết năm 1922 [131, tr.111]. Từ đó cho đến nay, tiểu thuyết Tố Tâm luôn nhận được

sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học cả trong và ngoài nước.

Nhìn chung, khi xem xét tác phẩm dưới góc độ lịch sử, các nhà nghiên cứu,

phê bình đều nhất trí khẳng định vị trí mở đầu của tác phẩm đối với sự ra đời và

phát triển của tiểu thuyết Việt Nam nói chung, của tiểu thuyết lãng mạn và tiểu

thuyết tâm lý nói riêng theo hướng hiện đại hóa, tiêu biểu là: Lê Thanh [156,

tr.192]; Trần Đình Hƣợu và Lê Chí Dũng [58, tr.327]; Phan Cự Đệ [26, tr.29];

Nguyễn Đăng Mạnh và Nguyễn Đình Chú [74, tr.75]; v.v.. Cho đến gần đây, vị trí

của tác phẩm đối với tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc vẫn được tiếp tục

khẳng định. Tố Tâm vẫn được đánh giá là “một gương mặt tiểu thuyết sáng gía, tiêu

biểu, một đỉnh cao trong vòng ba mươi năm đầu thế kỷ XX” [147, tr.137].

Tuy nhiên, dưới góc độ loại hình, sự xem xét tác phẩm vẫn có những ý kiến

chưa thống nhất. Huỳnh Lý [127], Nguyễn Đăng Mạnh [81, tr.35], Hà Minh Đức

[32, tr.14], Phan Cự Đệ [26, tr.23-25], Hoàng Nhƣ Mai [69, tr.6];v.v.. đều cho

rằng Tố Tâm là cuốn tiểu thuyết lãng mạn đầu tiên trong văn xuôi đầu thế kỷ ở ta,

nhưng, Trần Đình Hƣợu và Lê Chí Dũng lại nói: “Tố Tâm và Đạm Thuỷ không

hẳn là nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn... Tố Tâm chưa đạt tới một tiểu thuyết lãng

mạn chủ nghĩa” [58, tr.323]. Trong Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Trần Đăng Suyền

và Lê Quang Hƣng cũng chỉ coi Tố Tâm là “có tính chất lãng mạn”, là “mầm mống

của chủ nghĩa lãng mạn” [147, tr.149].

Trong giai đoạn trước năm 1945, đa số các nhà nghiên cứu tán thành ý kiến

của Hoàng Ngọc Phách, coi Tố Tâm là tiểu thuyết tâm lý. Lê Hữu Phúc lưu ý:

“Độc giả xem quyển Tố Tâm xin nhớ là một quyển tâm lý tiểu thuyết” [131, tr.113].

Trƣơng Tửu khẳng định: “Ông Song An là người đầu tiên dùng quốc văn viết một

quyển tiểu thuyết tâm lý” [13, tr.546]. Lê Thanh nhận xét: “Quyển Tố Tâm là

quyển tâm lý tiểu thuyết đầu tiên ở ta” [156, tr.192].v.v... Nhưng, Thạch Lam lại

8

không thừa nhận Tố Tâm là một cuốn tiểu thuyết tâm lý, vì “chỉ phân tách có cái

tâm lý hời hợt bề ngoài, một cái thái độ của tâm hồn mà thôi” [102, tr.365]. Vũ

Ngọc Phan cũng nói: “Tác giả đã lầm là đi đặt Tố Tâm vào loại tâm lý tiểu thuyết,

vì đọc cả cuốn tiểu thuyết không thấy tính chất tâm lý ở đâu cả” [129, tr.174].

Sau 1945, nhiều nhà nghiên cứu, phê bình khẳng định Tố Tâm là một tiểu

thuyết tâm lý, chẳng hạn: Trần Đình Hƣợu và Lê Chí Dũng nói: “Tố Tâm là một

cuốn tiểu thuyết tâm lý(...). Đạm Thuỷ và Tố Tâm thực sự có nội tâm phong phú”

[58, tr.323]; Nguyễn Huệ Chi nói: “phân tích tâm lý là đặc điểm nổi bật của cuốn

tiểu thuyết này nên xếp nó vào loại hình tiểu thuyết tâm lý là thích hợp” [13, tr.104].

Nhưng, một số nhà nghiên cứu, phê bình khác lại vẫn dè dặt, chẳng hạn: Huỳnh

Lý: “Tác giả gọi cuốn sách là tâm lý tiểu thuyết. Có những nhà phê bình bảo nên

chữa là ái tình tiểu thuyết hoặc bi tình tiểu thuyết; có người sau này gọi nó là xã hội

tiểu thuyết. Đều đúng cả. Nhưng nếu cứ phải xếp loại nó theo “mốt” đương thời, thì

cho nó là tâm lý tiểu thuyết vẫn đúng” [127]; Phan Cự Đệ: “Hoàng Ngọc Phách gọi

Tố Tâm là “tâm lý tiểu thuyết”. Điều đó có phần đúng” [26, tr.25]; Đỗ Đức Hiểu:

“Có thể gọi Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách là tiểu thuyết tâm lý... Song, đó là tâm

lý cổ điển, tâm lý trên mặt phẳng” [49, tr.125].

Điều chúng tôi rất lưu ý là: đa số các bài viết và các công trình của các tác

giả đi trước đều thống nhất cho rằng sự độc đáo của tác phẩm là ở sự miêu tả tâm lý

ái tình và tác phẩm là tiểu thuyết ái tình. Thiếu Sơn nhận xét: “Tố Tâm cũng là tiểu

thuyết tình”. Trúc Hà ca ngợi tác giả Tố Tâm đã “chịu khó đem ngọn bút tinh tế vẽ

vời mọi nỗi u ẩn, ly kỳ, bí mật của ái tình một cách rõ ràng, sáng sủa”. Trƣơng Tửu

khẳng định: tác giả Tố Tâm “có tài tả những sự phát hiện lặng lẽ của ái tình”. Phạm

Thế Ngũ cho rằng: “Cả câu chuyện là một cuộc phân tích tâm lý ái tình” [13, tr.

516,529,543,595]. Phan Cự Đệ nói: Hoàng Ngọc Phách đã: “có biệt tài khi miêu tả

những phát hiện lặng lẽ của ái tình” [26, tr.26]. Hà Minh Đức cũng nói: “Tố Tâm là

một cuốn tiểu thuyết ái tình” [32, tr.14]. Ngay cả Vũ Ngọc Phan, người vốn không

thừa nhận Tố Tâm là tiểu thuyết tâm lý, lại vẫn coi Tố Tâm là tiểu thuyết ái tình:

“Nói về loại, Tố Tâm chỉ là một quyển ái tình tiểu thuyết” [129, tr.174].

9

Khái niệm “ái tình” mà các nhà nghiên cứu nói ở trên không phải chỉ để chỉ

phạm vi đề tài của tác phẩm, mà còn để chỉ nội dung tâm lý được miêu tả là tâm lý

tình cảm. Song Vân nhắc nhở: “Câu chuyện đó muốn gọi là tâm lý tiểu thuyết hay

ái tình tiểu thuyết, chẳng qua chỉ là một sự giải phẫu khôn khéo những tình cảm”

[13, tr.530]. Huỳnh Lý nhận xét: “Tố Tâm vẫn là lịch sử của một nỗi lòng, là tâm lý

của một cảm tình chuyển từ khâm phục đến si ái” [127]. Hà Minh Đức khẳng định:

“Sức hấp dẫn của tác phẩm là ở những tình cảm xúc động của người con gái lần đầu

đến với tình yêu và đau khổ vì tình... Dòng tình cảm vừa chân tình vừa lãng mạn,

thơ mộng bao trùm nhiều trang sách. Có thể xem Tố Tâm là cuốn tiểu thuyết lãng

mạn đầu tiên trong văn xuôi ở đầu thế kỷ góp phần mở đầu cho trào lưu lãng mạn

trong văn học. Chất lãng mạn này ít nhiều mang tính chất tiến bộ. Nó được nuôi

dưỡng bằng mạch tình cảm tương đối trong sáng” [32, tr.14].

Nhiều nhà nghiên cứu, phê bình còn coi sự tác động chủ yếu nhất và mạnh

mẽ nhất của Tố Tâm đối với bạn đọc là sự tác động về tình cảm. Thiếu Sơn nói:

“Tố Tâm quả đã chinh phục trái tim người đọc từ Bắc chí Nam”; Trúc Hà cho biết:

“Trong lúc đọc Tố Tâm, tôi vẫn thấy thứ tình cảm xúc ấy, giá ở những kẻ nhu cảm

đa tình, có thể vì Tố Tâm mà nhỏ đôi giọt lệ”; Trần Đình Ý nhận xét: “Tố Tâm là

một cuốn tiểu thuyết về tình cảm. Tác giả đa cảm trước hết chỉ muốn cho chúng ta

rung động, xúc cảm” [13, tr.515, 524, 557]; Lê Trí Viễn tâm sự: “Không truyện

nào in vào lòng tôi sâu bằng Tố Tâm. Tôi đã thật sự vui sướng với hai nhân vật

chính lúc họ yêu nhau, rồi tôi lại thầm rơi nước mắt lúc cô gái lìa đời” [180, tr.178];

Công trình Văn học Việt Nam thế kỷ XX do Trần Đăng Suyền và Lê Quang Hƣng

chủ biên cũng khẳng định: “chưa có cuốn tiểu thuyết nào vừa ra đời đã làm rung

động trái tim độc giả nhiều như Tố Tâm” [147, tr.137]; v.v...

Nhìn chung, các công trình, bài viết trước đây đều chưa đặt ra việc xác định

dạng (kiểu) tiểu thuyết tâm lý của Tố Tâm. Tuy vậy, những ý kiến của các tác giả đi

trước - đặc biệt là những ý kiến phân tích tác phẩm như một cuốn tiểu thuyết ái tình

- thật sự là những gợi ý bổ ích cho chúng tôi trong việc khẳng định Tố Tâm là tiểu

thuyết tâm lý tình cảm.

2.2. Về Lấy nhau vì tình và tiểu thuyết tâm lý bản năng

10

Nổi bật trong các ý kiến đánh giá về Lấy nhau vì tình là các ý kiến cho rằng

Lấy nhau vì tình là tác phẩm chứng tỏ tư tưởng bảo thủ và lòng tin ở thuyết tính dục

của Vũ Trọng Phụng. Vũ Ngọc Phan nói: “Từ Kỹ nghệ lấy Tây cho đến Lấy nhau

vì tình, không một phóng sự nào, không một tiểu thuyết nào của ông lại không có

những chuyện hiếp dâm với những ảnh hưởng tai hại của nó. Ông tin ở chủ nghĩa

tính dục một cách thái quá và tưởng rằng bất kỳ việc gì ở đời cũng có thể đem chủ

nghĩa ấy ra để giảng giải” [96, tr.109]. Trƣơng Chính nhận xét: “Trong các tác

phẩm của ông, phóng sự hay tiểu thuyết, từ Kỹ nghệ lấy Tây cho đến Lấy nhau vì

tình, ông chú trọng tả khía cạnh dâm đãng của con người” [96, tr.142]. Phan Cự Đệ

cho rằng Lấy nhau vì tình là tác phẩm “rơi rớt những quan điểm bảo thủ hoặc cải

lương phong kiến của chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực” [30, tr.355].

Về nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, các nhà nghiên cứu đều cho rằng

miêu tả tâm lý vốn không phải là sở trường của Vũ Trọng Phụng. Phạm Thế Ngũ

nói: “Sau Làm đĩ,... Vũ Trọng Phụng đổi hướng, bước sang một lô tiểu thuyết có

khuynh hướng phân tích tâm lý: Dứt tình, Lấy nhau vì tình, Trúng số độc đắc. Song

ở đây ta thấy mấy sở đoản của Vũ Trọng Phụng. Ông chỉ khéo chụp được những

xen, những dáng bề ngoài, nhất là tài tình để điểm vào đó nụ cười chua chát, giọng

nói mỉa mai, do đó ông thành công ở loại phóng sự, loại tiểu thuyết có động tác ồ ạt

bên ngoài, có tính chất hoạt kê bông lơn. Nhưng đến loại tâm lý tiểu thuyết, cần đặt

một tâm trạng dưới con mắt phân tích theo dõi, cần để cái cơ mưu chìm vào trong,

mô tả những hành động nguyên nhân hơn là những hành động kết quả, cần tạo cả

không khí tâm lý ở chỗ vô hình nó linh hoạt hoá nhân vật, Vũ Trọng Phụng tỏ ra

cộc cằn, vụng về. Nhân vật của ông khi đó hiện ra nếu không vô lý thì cũng rất khó

hiểu, khó cắt nghĩa trong sự hành động. Câu chuyện thường kềnh càng những động

tác, những cảnh, những khung, những lời, trong khi nhân vật suy nghĩ hay xử sự

một cách rất nông cạn, tầm thường, kỳ cục nữa. Đó là những khuyết điểm rõ rệt

thường thấy trong mấy tiểu thuyết tâm lý trên của Vũ Trọng Phụng” [96, tr.168].

Nguyễn Đăng Mạnh nói: “Vũ Trọng Phụng rất ham thích phân tích, lý giải những

quá trình tâm lý của nhân vật của mình. Thủ pháp được dùng phổ biến ở đây là đưa

ra những mệnh đề có tính khái quát triết lý làm căn cứ suy luận” [78, tr.51]; “Làm đĩ

11

thực chất là sự thuyết minh cho các quan niệm hết sức bi quan về tình yêu nam nữ:

“giao cấu là mục đích cuối cùng của ái tình” (…). Lấy nhau vì tình lại thuyết minh

cho một luận đề khác được Vũ Trọng Phụng dùng đặt tên cho một truyện ngắn của

mình: Cái ghen đàn ông (1937). (…) Ông cho rằng “lấy nhau vì tình” tất sẽ dẫn đến

tan vỡ và bất hạnh, vì tình yêu thực ra chỉ là sự “yêu mình qua người khác” [79,

tr.6,7]. Nguyễn Hoành Khung nhận xét: bên cạnh những trang viết “tỏ ra khá sắc sảo

trong việc thăm dò, phân tích tâm lý phức tạp của con người”, Vũ Trọng Phụng đã

bộc lộ những hạn chế như: đã nhập làm một “chủ nghĩa định mệnh lịch sử - xã hội”

với “chủ nghĩa định mệnh sinh lý” do ông tiếp thu của Phrớt một cách dung tục để rồi

đi đến chỗ “rời bỏ những nguyên tắc hiện thực chủ nghĩa để sa hẳn vào chủ nghĩa tự

nhiên”; đã “sẵn sàng gò ép tâm lý tính cách nhân vật để minh họa cho quan niệm của

mình”; đã sáng tạo ra một loạt những tác phẩm “giống như những nghiên cứu tâm lý,

tất cả đều chứng minh luận đề tâm lý: bản chất con người là ích kỷ” [63, tr.413]. v.v...

Rải rác trong nhiều bài viết, công trình khác về Vũ Trọng Phụng, chúng ta còn

có thể gặp nhiều ý kiến tương tự. Chẳng hạn, nhận xét của Trần Đăng Thao: “nhân

vật của Vũ Trọng Phụng thường động về vị trí và tĩnh về tâm lý” [159]; nhận xét của

Đinh Trí Dũng: những nhân vật nạn nhân, “tha hóa” của Vũ Trọng Phụng “đã có

chiều sâu tâm lý đáng kể”, nhưng ở những nhân vật khác như Nghị Hách, Xuân tóc

đỏ... “đời sống tâm lý có khi còn xộc xệch” [17]; v.v...

Nhìn chung, tuy chưa có nhà nghiên cứu, phê bình nào xem xét tác phẩm dưới

góc độ loại hình tiểu thuyết tâm lý, nhưng rải rác trong các ý kiến của họ, chúng tôi đã

nhận được những chỉ dẫn có ý nghĩa định hướng rất quan trọng. Những nhận xét về

“lòng tin ở thuyết tính dục”, về sự “cộc cằn, vụng về”, “điều khiển như những con

rối” trong miêu tả tâm lý, về việc coi Lấy nhau vì tình là tiểu thuyết luận đề, về

“khuynh hướng khái quát triết lý” và sự “thích thú phát biểu những quy luật tâm lý

của “loài người”, về sự “gò ép tâm lý tính cách nhân vật để minh họa cho quan niệm

của mình”,v.v… là những gợi ý rất bổ ích cho chúng tôi trong việc xếp tác phẩm vào

dạng tiểu thuyết tâm lý bản năng.

2.3. Về Bƣớm trắng và tiểu thuyết tâm lý ý thức cá nhân khép kín

12

Phần lớn những công trình, bài viết trước đây về Bướm trắng chủ yếu tập

trung nghiên cứu nội dung tư tưởng của tác phẩm. Tiêu biểu cho khuynh hướng đề

cao là ý kiến của các tác giả: Đặng Tiến, Bùi Xuân Bào, Phạm Thế Ngũ, Trần

Hữu Tá, Đỗ Đức Hiểu, v.v... Đặng Tiến cho rằng Bướm trắng chịu “ảnh hưởng

của Trang tử” và viết Bướm trắng, Nhất Linh muốn thể hiện quan niệm của ông về

hạnh phúc: “hạnh phúc chỉ ở lòng mình, hạnh phúc chỉ ở sự yên tĩnh của tâm hồn”

[165]. Phạm Thế Ngũ cho rằng nhân vật Trương là con người “muốn phá hoại

nhân phẩm, tự thân trụy lạc, mà vẫn không thể nào không hướng về những nẻo

đường thiện mỹ”. Trần Hữu Tá nhận xét: viết Bướm trắng, “tác giả đâu có ý muốn

ca ngợi cuộc sống vô luân”, Bướm trắng đã có những trang viết có “giá trị nhân văn

đích thực” [98, tr.160, 378]. Đỗ Đức Hiểu cho rằng miêu tả chuyện tình của nhân

vật Trương trong Bướm trắng, Nhất Linh muốn nói: “Tình yêu, cái đẹp như con

bướm trắng, trẻ thơ không bao giờ bắt được, nó luôn ở phía trước con người. Và con

người không ngơi nghỉ đuổi bắt cái đẹp” [49, tr.131]; v.v..

Nhưng ngược lại, đúng như nhận xét của Trƣơng Chính: cũng như Con

đường sáng của Hoàng Đạo và Đẹp của Khái Hưng, Bướm trắng của Nhất Linh

thường bị các nhà phê bình “phê phán là bệnh hoạn, nghệ thuật vị nghệ thuật, hoặc

theo chủ nghĩa cải lương tư sản” [14]. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là ý kiến

của các nhà nghiên cứu: Thế Phong, Phan Cự Đệ, Nguyễn Hoành Khung, Hà

Minh Đức,v.v... Thế Phong khẳng định: Nhất Linh viết tác phẩm này chỉ vì “chán

chường cách mệnh và chính trị, con người trở về với nội tâm” [98, tr.168]. Phan

Cự Đệ nhận xét: nhân vật Trương là con người “sống gấp, hưởng thụ và phá

phách”, “sa đọa về nhân phẩm”, là “con người hạ xuống hàng con vật”, con người

có “lối sống hưởng thụ ích kỷ của chủ nghĩa cá nhân tư sản”, là “chủ nghĩa cá nhân

cực đoan và chủ nghĩa vô luân”, và Bướm trắng là tác phẩm “lãng mạn suy đồi”

được viết trong “thời kỳ xuống dốc”, “đi vào ngõ cụt, bế tắc” của Nhất Linh và Tự

Lực Văn Đoàn [91, tr.10-19]. Nguyễn Hoành Khung cho rằng Bướm trắng đã “đi

vào đồi bại với chủ nghĩa vô luân trắng trợn”, đã “thắm đượm một chủ nghĩa bi

quan đen tối và chủ nghĩa cá nhân lúc này bộc lộ đầy đủ tính chất đồi bại của nó, trở

13

thành chủ nghĩa vô luân” [62, tr.33]; Bướm trắng “là một chủ nghĩa cá nhân cực

đoan, với thứ tình yêu ích kỷ đến bệnh hoạn, một tâm trạng bi quan đen tối và thái

độ buông xuôi trong sa đoạ” [60, tr.113]. Hà Minh Đức khẳng định nhân vật

Trương là con người “đang thoái hoá”, “mất hết khả năng chống lại những cám dỗ

của vật chất”, “không có sức đề kháng, tự ý thức kém và hoàn toàn buông xuôi

trước những cám dỗ và xô đẩy của cuộc đời” và “Bướm trắng cũng ghi nhận ở

chính tác giả ngòi bút chân thành và mệt mỏi ở một chặng đường mà xã hội mờ mịt

và đầy biến động, người viết dễ mất hướng đi” [33, tr.12]; Bướm trắng “không còn

mang thuần tuý tính chất lãng mạn nữa mà đã nhiễm triết lý hiện sinh, lối sống

hưởng lạc” [35, tr.78].

Việc đánh giá giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm không phải là nhiệm vụ

trọng tâm của luận án, nhưng cũng không phải là vấn đề mà luận án có thể bỏ qua,

vì việc làm sáng tỏ giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm luôn là cơ sở cho sự xác

lập một cái nhìn thống nhất về hình thức nghệ thuật, trong đó có sự đánh giá về

phương diện loại hình.

Về nghệ thuật miêu tả tâm lý, đa số các nhà nghiên cứu, phê bình coi Bướm

trắng là tác phẩm miêu tả tâm lý thành công nhất của Nhất Linh. Thế Uyên cho

rằng Bướm trắng là cuốn sách: “lúc mới ra đời bị thờ ơ” nhưng chính nó mới là “có

giá trị hơn”. Nguyễn Vỹ nói: Bướm trắng “là tác phẩm duy nhất mà anh - tức Nhất

Linh - ưng ý”. Tƣờng Hùng nhận xét: “Ngày trước, thời của các cuốn Đôi bạn,

Đoạn tuyệt, tiểu thuyết của Nhất Linh là một phương tiện tranh đấu. Nghệ thuật chỉ

đứng sau, nhưng cũng rất rõ rệt, đủ để chứng tỏ một văn sĩ có tài. Và dần dần nghệ

thuật trở nên quan trọng, trong Bướm trắng chẳng hạn”. Phạm Thế Ngũ coi Bướm

trắng là “thành tựu của một văn tài đã chín”. Bùi Xuân Bào cho rằng Bướm trắng

là tác phẩm “đánh dấu một chặng đường phát triển mới của Nhất Linh”, ở Bướm

trắng, kỹ thuật tiểu thuyết của Nhất Linh đã “đạt đến hoàn hảo”. Trần Hữu Tá cho

rằng “đến Bướm trắng, Nhất Linh thực sự đã đạt được thành tựu đáng kể trong quá

trình hiện đại hoá nghệ thuật viết tiểu thuyết của mình”, và Bướm trắng là tác phẩm

thể hiện “những tìm tòi đổi mới của Nhất Linh về phương diện nghệ thuật” [98,

14

tr.496,430,516,151,130,136,380]. Đỗ Đức Hiểu cũng nhận xét “Bướm trắng là một

thành tựu mới trong sự nghiệp văn chương của Nhất Linh, một bước ngoặt quan

trọng. Bướm trắng là một tiểu thuyết hiện đại” [49, tr.118]. Hà Minh Đức nói: “Có

thể nói Nhất Linh đã thành công trên nhiều trang phân tích tâm lý nhân vật, đặc biệt

trong tình cảm yêu đương của Trương” [33, tr.12]. Trịnh Hồ Khoa nhận xét: “xét

về nghệ thuật kết cấu tâm lý” thì Bướm trắng “là tác phẩm tiêu biểu và thành công

hơn cả của Nhất Linh” [99, tr.101]. Chính Nhất Linh cũng khẳng định rằng Bướm

trắng là cuốn truyện mà ông thích nhất, là “cuốn truyện phân tích tâm lý căn bản có

thể vượt không và thời gian” [108, tr.103].

Nhiều công trình, bài viết đã có những tìm tòi, khám phá sâu sắc về nội dung

tâm lý và phương thức, phương tiện nghệ thuật thể hiện tâm lý của tác phẩm. Phan

Cự Đệ nhận thấy cốt truyện của Bướm trắng “có khuynh hướng thu vào những

vòng tròn tâm lý hướng tâm” [29, tr.289]. Hà Minh Đức nhận xét: “Trương là nhân

vật có nhiều mâu thuẫn trong tâm trạng”, nhân vật nhiều khi như “bị vây bọc trong

những mắt lưới khó tìm được lối ra”, “Dòng ý thức của nhân vật không trôi chảy”

[33, tr.10]. Đỗ Đức Hiểu gọi sự vận động của cuộc sống tâm linh nhân vật là “hành

trình bên trong” và nhận thấy Nhất Linh đã xây dựng nhân vật theo cách của

Stendhal, Flaubert và Dostoievski, là “nhân vật không có tính cách định hình sẵn;

nó chủ động biến đổi, nó xây dựng từng bước, nó tự hình thành dần, từ trang này

sang trang khác. Người kể chuyện để ngòi bút “phiêu lưu” với cuộc sống tâm linh nhân

vật” [49, tr.125].

Nhìn chung, vẫn chưa có công trình, bài viết nào nghiên cứu, phê bình Bướm

trắng từ góc độ loại hình. Tuy nhiên, những nhận xét của các nhà nghiên cứu, đặc

biệt là những đánh gía về “dòng tâm lý”, “dòng ý thức”, “hành trình bên trong”,

“khuynh hướng thu vào những vòng tròn tâm lý hướng tâm”, tâm lý như “bị vây

bọc trong những mắt lưới khó tìm được lối ra”, v.v.. như vừa nói ở trên là những gợi

ý thực sự có ý nghĩa đối với chúng tôi trong việc xếp Bướm trắng vào dạng tiểu

thuyết tâm lý ý thức cá nhân khép kín.

2. 4. Về Sống mòn và tiểu thuyết tâm lý nhân cách

15

Kể từ bài viết đầu tiên về Sống mòn của tác giả Nguyễn Huy Tƣởng với

nhan đề: Tưởng nhớ Nam Cao, đọc tại hội nghị tranh luận hội họa ngày 31/12/1951

đến nay, sự nghiệp sáng tác của Nam Cao nói chung và Sống mòn nói riêng ngày

càng nhận được nhiều hơn sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học.

Hầu hết các ý kiến đều đánh giá cao nghệ thuật miêu tả tâm lý của tác phẩm.

Hà Minh Đức coi “Sống mòn là một trong những tác phẩm có giá trị nhất”

trong giai đoạn 1939 - 1945; là “tác phẩm có cấu trúc tâm lý độc đáo” [35, tr.126]

và Thứ là “kiểu nhân vật tổng hợp hơn cả cho các loại tính cách tiểu tư sản trí thức

của Nam Cao” [31, tr.26]; là “nhân vật mang ý nghĩa tổng hợp cho nhiều tâm trạng”

[94, tr.408]. Nhà nghiên cứu nhận xét: “Cấu tạo của Sống mòn vừa đi sát vào sườn

cốt truyện, vừa gắn liền với dòng tâm lý... Tác giả luôn tôn trọng tính khách quan

của tâm lý từng loại người và tạo điều kiện cho tâm lý bộc lộ tính cách” [31, tr.47].

Phan Cự Đệ cho rằng “Trong tiểu thuyết Sống mòn, Nam Cao tập trung đi sâu vào

cái bi kịch nội tâm, vào những suy nghĩ luẩn quẩn, bế tắc của anh tiểu tư sản trí

thức. Ánh đèn pha của nhà tiểu thuyết chiếu từ trong ra” [26, tr.120,309]. Phong Lê

cho rằng nhân vật của Nam Cao có “cả sức chứa và sức mở”, “thế giới nội tâm các

nhân vật của Nam Cao không phải là thế giới nội tâm của con người khép kín trong

bốn bức tường”, mà là đời sống tâm lý “có một hàm lượng xã hội đáng kể” [116,

tr.75]; Sống mòn là “cuốn tiểu thuyết không có cốt, không có truyện, không có gay

cấn và ly kỳ; bối cảnh truyện chỉ là sinh hoạt của mấy nhà giáo dạy tư, nhưng sao

lại có sức gắn đến thế với cả cuộc đời rộng lớn” [117]; “Sống mòn không chỉ là một

tiểu thuyết hướng nội như cách ta hiểu lâu nay. Đó cũng chính là một tiểu thuyết rất

tài năng trong các khả năng hướng ngoại” [118]. Nguyễn Hoành Khung cho rằng

ngòi bút Nam Cao “đặc biệt sắc sảo khi phát hiện những bi kịch tâm hồn”, “đặc biệt

sinh động khi miêu tả diễn biến tâm lý”, “luôn luôn có những nhận xét tinh tế về

tâm lý con người”, tính cách nhân vật của Nam Cao “được khắc họa rõ nét chủ yếu

bằng sự soi sáng bên trong”, mỗi nhân vật “đều có một diện mạo tâm lý riêng”,

Nam Cao “nắm rất vững quy luật tâm lý con người và rất chú ý quá trình tâm lý

nhân vật. Do đó, có khi sự diễn biến tâm lý rất đột ngột, nhưng vẫn tự nhiên vì nó

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!