Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nhập khẩu và phân phối rượu vang của công ty CP XNK TP TOCONTAP HANOI.docx
MIỄN PHÍ
Số trang
97
Kích thước
413.1 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1651

Nhập khẩu và phân phối rượu vang của công ty CP XNK TP TOCONTAP HANOI.docx

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Tổng giám đốc

Phó tổng giám đốc

Phó tổng giám đốc

Phòng

Tổng hợp

PhòngTài chính kế toán

Phòng Tổ chức lao động

Phòng

Hành chính quản trị

- Chi nhánh Hải Phòng

- Chi nhánh TP Hồ Chí Minh

- Xí nghiệp TOCAN

Các phòng kinh doanh xuất nhập khẩu tổng hợp 1,2,3,4,5,6,7

(Theo nguồn số liệu của phòng tổng hợp)

Chuyên Đề Thực Tập Tốt Nghiệp Khoa KT&KDQT

MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài:

Trong xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, quan hệ

mậu dịch tự do được thực sự mở rộng, thương mại, trao đổi buôn bán giữa các

nước ngày càng đa dạng trên mọi lĩnh vực, ngành nghề. Việt Nam cũng đã và

đang tích cực tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế bằng việc mở

rộng các quan hệ đối ngoại với các nước trên thế giới. Kim ngạch xuất nhập

khẩu chiếm tỷ trọng không nhỏ trong tổng thu nhập quốc dân của Việt Nam.

Trong giai đoạn này, Việt Nam đã đạt được những thành tựu kinh tế

đáng khâm phục: năm 2006, tỷ lệ tăng trưởng đạt 8,17% , đứng thứ hai tại

châu Á; 3 tháng đầu năm 2007 kim ngạch xuất khẩu đạt 10,48 tỉ USD, cả

nước nhập khẩu gần 12 tỉ USD, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện,

trong 10 năm qua Việt Nam đã giảm tỷ lệ người nghèo từ 60% dân số xuống

còn 19%. Bên cạnh đó, Việt Nam vừa chính thức trở thành thành viên trong

Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đạt kết quả phát triển con người đầy ấn

tượng, có mức GDP không ngừng tăng và đặt mục tiêu trở thành nước thu

nhập trung bình vào năm 2010. Một bộ phận người dân Việt Nam thuộc tầng

lớp trung lưu có thu nhập cao tăng lên.

Ở các nước đang phát triển, thu nhập tăng và đô thị hoá nhanh là những

nguyên nhân chính làm thay đổi nhu cầu ăn uống của người dân. Đó là yêu

cầu cao hơn cho bữa ăn, đặc biệt là nhu cầu về nhập khẩu thịt, các loại đồ

uống có cồn như rượu vang và các loại thực phẩm chế biến.

Thực ra, văn hóa rượu ở Việt Nam đã có từ lâu đời trong tổng thể văn

hóa ẩm thực của dân tộc nhưng về rượu vang vẫn còn ít người biết cảm thụ,

thưởng thức. Trong quá trình hội nhập quốc tế và bùng nổ du lịch, dòng

khách nước ngoài vào đầu tư, làm ăn và đi du lịch ở Việt Nam ngày càng

tăng. Do đó, nhu cầu về rượu vang trong tương lai gần sẽ ngày càng tăng,

đây sẽ là cơ hội kinh doanh cho các nhà nhập khẩu rượu vang trong nước

1

đặc biệt là TOCONTAP- một trong số những doanh nghiệp tiến hành hoạt

động nhập khẩu rượu vang sớm ở Việt Nam. Do đó với cơ hội thực tập tại

công ty TOCONTAP em đã chọn đề tài: “ Nhập khẩu và phân phối rượu

vang của công ty CP XNK TP TOCONTAP HANOI ” làm chuyên đề thực

tập tốt nghiệp.

2. Mục đích của đề tài:

Nghiên cứu đề tài này nhằm cung cấp những hiểu biết cơ bản về nhập

khẩu và phân phối sản phẩm nhập khẩu.

Đánh giá khái quát thực trạng hoạt động nhập khẩu và phân phối rượu

của công ty XNK TP TOCONTAP và cơ hội kinh doanh nhập khẩu rượu

vang trên thị trường Việt Nam.

3. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu: hoạt động kinh doanh nhập khẩu và phân phối

rượu vang của công ty.

Trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài, em đã sử dụng kết hợp

một số phương pháp nghiên cứu như: tham khảo những tài liệu có liên quan

đến quá trình kinh doanh nhập khẩu, phân phối sản phẩm rượu vang, thu

thập thông tin trên báo chí, số liệu của công ty những năm gần đây. Trên cơ

sở đó tiến hành các phân tích đánh giá ban đầu sơ bộ về hoạt động nhập

khẩu rượu vang của công ty XNK TP TOCONTAP.

4. Kết cấu cấu của chuyên đề thực tập tốt nghiệp:

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp được chia thành 3 phần chính:

Chương 1: Những vấn đề chung về hoạt động kinh doanh nhập khẩu

và phân phối sản phẩm nhập khẩu.

Chương 2: Thực trạng hoạt động nhập khẩu rượu vang của công ty

CP XNK TP TOCONTAP HANOI.

Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị tăng cường hoạt động kinh

doanh nhập khẩu rượu vang.

2

Chuyên Đề Thực Tập Tốt Nghiệp Khoa KT&KDQT

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG

KINH DOANH NHẬP KHẨU VÀ PHÂN PHỐI SẢN PHẨM

NHẬP KHẨU

1. Khái niệm và vai trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu:

1.1. Khái niệm:

Hoạt động Nhập khẩu là một bộ phận của thương mại quốc tế, xuất

hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển mạnh mẽ cả chiều rộng cũng như chiều

sâu. Trước đây hoạt động Nhập khẩu chủ yếu là quá trình trao đổi hàng hóa

hữu hình giữa các quốc gia, hoặc các công ty các thể nhân của các quốc gia

trong đó hàng hóa được di chuyển từ lãnh thổ quốc gia này tới lãnh thổ quốc

gia khác. Đến nay nhập khẩu đã phát triển với rất nhiều hình thức, diễn ra với

phạm vi toàn cầu, trong tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế, cả trong hàng

hóa hữu hình và vô hình.

Như vậy có thể hiểu Nhập khẩu là quá trình đưa hàng hóa dịch vụ được

sản xuất ở nước ngoài vào trong nước để phục vụ cho nhu cầu sản xuất và tiêu

dùng trong nước hoặc tái xuất khẩu nhằm thu lợi nhuận, nối liền sản xuất với

tiêu dùng giữa các quốc gia.

Nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán diễn ra giữa các nước,

các chủ thể kinh tế khác nhau trên phạm vi toàn cầu vì vậy, hoạt động nhập

khẩu thường xuyên bị chi phối bởi các chính sách luật pháp của mỗi quốc gia,

mỗi quốc gia quản lý hoạt động nhập khẩu thông qua các công cụ như: công

cụ thuế quan, hạn ngạch, giấy phép, công cụ hàng rào kỹ thuật, cấm nhập

khẩu...

Các quốc gia tiến hành hoạt động kinh doanh nhập khẩu nhằm mục

đích là có được hiệu quả cao từ việc nhập khẩu các loại hàng hóa phục vụ cho

tái sản xuất mở rộng và nâng cao đời sống nhân dân trong nước, người dân

3

mỗi nước có cơ hội lựa chọn lớn hơn đối với các hàng hóa dịch vụ, đảm bảo

sự phát triển liên tục, nâng cao năng suất lao động, bảo vệ ngành sản xuất

trong nước, giải quyết vấn đề thiếu hụt trên thị trường trong nước. Ngoài ra,

hoạt động nhập khẩu còn đảm bảo nguồn nguyên liệu cho những ngành kinh

tế mũi nhọn của mỗi nước phát triển ổn định khi mà khả năng sản xuất trong

nước chưa đáp ứng được, tạo những năng lực mới cho sản xuất, khai thác lợi

thế so sánh của quốc gia, kết hợp hài hòa có hiệu quả giữa nhập khẩu với cải

thiện cán cân thanh toán.

1.2. Lợi ích thu được từ hoạt động kinh doanh Nhập khẩu:

Trong xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra sôi nổi, các quốc gia không

ngừng mở rộng quan hệ buôn bán, trao đổi với nhau, thương mại quốc tế ngày

càng phát triển. Nhập khẩu với vai trò là một bộ phận của thương mại quốc tế

cũng đóng góp một phần không nhỏ trong sự lớn mạnh này. Nó tác động tích

cực đến sự phát triển cân đối và khai thác tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế

mỗi quốc gia về sức lao động, vốn, tài nguyên, khoa học kỹ thuật... Nhập

khẩu thể hiện mối quan hệ kinh tế mức độ phụ thuộc gắn bó lẫn nhau giữa các

nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới do đó nhập khẩu có một vai trò rất

quan trọng đặc biệt là đối với các nước đang phát triển.

Thứ nhất, Nhập khẩu làm đa dạng hoá hàng hoá như chủng loại, chất

lượng, giá cả..., tăng khả năng lựa chọn hàng hóa và dịch vụ. Sự đa dạng hóa

sản phẩm một mặt cho phép người tiêu dùng được tiêu dùng những mặt hàng

sản xuất ở nước ngoài phù hợp với nhu cầu sản xuất ở trong nước. Đây là cơ

sở để bổ sung hàng hoá trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất được

nhưng không đáp ứng được đầy đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước. Mặt khác

sự cạnh tranh giữa nhiều nhà sản xuất như vậy dẫn đến những nỗ lực giảm giá

thành sản xuất xuống mức thấp nhất có thể của nhà sản xuất. Vì vậy người

tiêu dùng được hưởng lợi từ mức giá cạnh tranh quốc tế đó.

4

Chuyên Đề Thực Tập Tốt Nghiệp Khoa KT&KDQT

Thứ hai, Nhập khẩu có tác động trực tiếp đến sản xuất và kinh doanh

thương mại vì qua hoạt động nhập khẩu cung cấp cho nền kinh tế một lượng

lớn hàng hóa, nguyên nhiên vật liệu cần thiết bổ sung kịp thời những thiếu

hụt, mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo phát triển kinh tế cân đối và ổn

định.

Thứ ba, Nhập khẩu tạo ra sự liên kết giữa các nền kinh tế trong nước

với nền kinh tế thế giới, tạo điều kiện cho phân công lao động và hợp tác quốc

tế phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu, giúp khai thác được lợi thế so sánh

trên cơ sở chuyên môn hoá sản xuất. Một sản phẩm có thể được hợp tác bởi

nhiều quốc gia, một quốc gia có thể xuất nhập khẩu hàng hóa dịch vụ với các

quốc gia khác. Họ có thể tập trung nguồn lực vào việc sản xuất và xuất khẩu

các mặt hàng mà họ có lợi thế, nhập khẩu những mặt hàng mà họ không có lợi

thế. Như vậy, nhập khẩu tạo ra sự phát triển vượt bậc trong sản xuất xã hội,

tiết kiệm được chi phí và thời gian, tạo ra sự phát triển đồng đều về trình độ

xã hội, phá bỏ tình trạng độc quyền trong sản xuất và kinh doanh trong nước,

phát huy nhân tố mới trong sản xuất nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức kinh

tế có cơ hội tham gia và cạnh tranh trên thị trường.

Thứ tư, Nhập khẩu là kênh chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý.

Nhà đầu tư quốc tế mang theo vốn công nghệ và kỹ năng quản lý đến một

nước với mong đợi thu được tỷ lệ lợi nhuận cao nhất thông qua khả năng

nhập khẩu bán thành phẩm và xuất khẩu bán thành phẩm đó ra thị trường thế

giới một cách tự do. Như vậy nhập khẩu còn có vai trò tích cực trong việc

thúc đẩy xuất khẩu bởi vì nó cung cấp đầu vào cho sản xuất hàng hoá, nâng

cao chất lượng sản phẩm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng hoá

ra thị trường nước ngoài.

Thứ năm, Nhập khẩu có tác động tích cực đến giải quyết công ăn việc

làm và cải thiện đời sống nhân dân. Nhập khẩu tạo ra năng lực sản xuất mới,

5

đảm bảo nguồn nguyên liệu cho sản xuất, sản xuất ổn định đảm bảo đời sống

người lao động, nhiều ngành nghề mới phát triển tạo thêm nhiều công ăn việc

làm cho người lao động, đời sống được cải thiện, hạn chế các tệ nạn xã hội,

tạo thu nhập và ổn định phát triển kinh tế xã hội.

1.3. Sự cần thiết khách quan tiến hành hoạt động kinh doanh Nhập khẩu:

1.3.1. Nguồn lực sản xuất khan hiếm không đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất

và tiêu dùng trong nước:

Theo quy luật khan hiếm, nguồn lực xã hội là một phạm trù hữu hạn,

ngày càng khan hiếm và cạn kiệt do con người ngày càng sử dụng nhiều các

nguồn lực sản xuất phục vụ các nhu cầu khác nhau của họ. Trong khi các

nguồn lực sản xuất ngày càng giảm thì nhu cầu của con người ngày càng tăng

và không có giới hạn. Do đó bắt buộc mọi doanh nghiệp phải lựa chọn chính

xác ba câu hỏi: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? Thị

trường chỉ chấp nhận doanh nghiệp nào quyết định đúng loại sản phẩm với số

lượng và chất lượng phù hợp. Mọi doanh nghiệp trả lời không đúng ba vấn đề

trên sẽ sử dụng các nguồn lực sản xuất lãng phí, không hiệu quả nguồn lực

sản xuất xã hội và không có khả năng tồn tại.

1.3.2. Khoa học công nghệ phát triển là tiền đề đẩy mạnh hoạt động kinh

doanh nhập khẩu.

Sự phát triển của kỹ thuật sản xuất đã tạo ra nhiều sản phẩm mới, nhiều

phương pháp chế tạo sản phẩm được tìm ra. Kỹ thuật sản xuất phát triển cho

phép với cùng một nguồn lực đầu vào nhất định người ta có thể tạo ra nhiều

những chủng loại sản phẩm khác nhau. Điều này cho phép các doanh nghiệp

có khả năng lựa chọn kinh tế, lựa chọn sản xuất kinh doanh sản phẩm tối ưu.

Sự lựa chọn đúng đắn sẽ mang lại cho doanh nghiệp hiệu quả kinh doanh cao

nhất , thu được nhiều lợi ích nhất. Sự tăng trưởng kết quả kinh doanh của sản

xuất chủ yếu nhờ vào việc cải tiến các yếu tố sản xuất về mặt chất lượng, ứng

dụng các tiến bộ kỹ thuật mới, công nghệ mới hoàn thiện công tác quản trị và

6

Chuyên Đề Thực Tập Tốt Nghiệp Khoa KT&KDQT

cơ cấu kinh tế... nâng cao chất lượng các hoạt động kinh tế. Tóm lại, nhờ vào

sự phát triển của khoa học công nghệ hoạt động kinh doanh nhập khẩu của

doanh nghiệp sẽ được đẩy mạnh.

1.3.3 Thị trường nhập khẩu cạnh tranh ngày càng gay gắt:

Trong điều kiện còn có sự chênh lệch quá lớn về trình độ phát triển

kinh tế và năng suất lao động, tự do thương mại đã làm cho nhập khẩu của

các nước chậm phát triển tăng lên và nhiều hàng hóa nước ngoài trở nên cạnh

tranh với hàng hóa trong nước, các doanh nghiệp nước ngoài cạnh tranh với

các doanh nghiệp trong nước. Do đó những doanh nghiệp trong nước để tồn

tại và phát triển phải luôn đổi mới để theo kịp sự thay đổi của môi trường,

nâng cao chất lượng hàng hóa, giảm chi phí sản xuất, nâng cao uy tín...Trong

điều kiện nguồn lực sản xuất khan hiếm, để tăng khả năng cạnh tranh của

doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài một trong những biện

pháp để tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước là nhập khẩu.

1.4 Các hình thức nhập khẩu chủ yếu:

Trên thị trường thế giới, những giao dịch ngoại thương đều được tiến

hành theo những cách thức nhất định, hoạt động nhập khẩu cũng được tiến

hành dưới nhiều hình thức khác nhau, mỗi hình thức đều có đặc điểm riêng,

tùy từng trường hợp, chủng loại hàng hóa, các nhân tố tác động khác mà

doanh nghiệp có thể chon lựa hình thức nhập khẩu phù hợp.

1.4.1 Nhập khẩu trực tiếp:

1.4.1.1 Khái niệm:

Hoạt động nhập khẩu trực tiếp là hình thức nhập khẩu độc lập của một

doanh nghiệp thực hiện hoạt động nhập khẩu trực tiếp các hàng hóa và dịch

vụ mà không qua một tổ chức trung gian nào.

1.4.1.2 Đặc điểm:

7

Hình thức này có ưu điểm là lợi nhuận thu được từ hoạt động nhập

khẩu nhiều hơn so với các hình thức khác.

Tuy nhiên đây là hình thức nhập khẩu mà tự doanh nghiệp đứng ra

nhập khẩu nên doanh nghiệp phải chịu mọi chi phí, rủi ro, tổn thất cũng như

lợi nhuận thu được từ hoạt động nhập khẩu của mình. Doanh nghiệp sẽ phải

chịu mọi nghĩa vụ thuế liên quan đến lĩnh vực nhập khẩu như thuế nhập khẩu,

thuế mặt hàng.... Do đó cần phải xem xét kỹ lưỡng từng bước, từ nghiên cứu

thị trường, đầu vào, đầu ra, cho đến việc ký kết và thực hiện hợp đồng, bán

hàng, thu tiền về.... để tránh gây tổn thất. Trong hợp đồng này doanh nghiệp

phải tự bỏ vốn để thanh toán và phải cân nhắc các khoản thu chi để đảm bảo

kinh doanh có lãi.

1.4.2 Nhập khẩu liên doanh:

1.4.2.1 Khái niệm:

Nhập khẩu liên doanh là hoạt động nhập khẩu hàng hóa trên cơ sở liên

kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp ( trong đó có ít nhất

một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng để cùng

giao dịch và đề ra chủ trương, biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập

khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho hai bên

theo nguyên tắc lãi cùng chia, lỗ cùng chịu.

1.4.2.2 Đặc điểm:

Ở hình thức này, các doanh nghiệp chịu ít rủi ro hơn so với hình thức

nhập khẩu trực tiếp bởi mỗi doanh nghiệp tham gia nhập khẩu liên doanh chỉ

phải góp một phần vốn nhất định, quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên

cũng phân bổ theo số vốn góp. Việc phân chia chi phí, các loại thuế theo tỷ lệ

góp vốn, lãi lỗ tùy theo hai bên thỏa thuận phân chia.

Trong hình thức nhập khẩu liên doanh, doanh nghiệp đứng ra nhập

khẩu hàng sẽ được tính kim ngạch nhập khẩu, nhưng khi đưa hàng về tiêu thụ

8

Chuyên Đề Thực Tập Tốt Nghiệp Khoa KT&KDQT

chỉ được tính doanh số trên số hàng tính theo tỷ lệ vốn góp và chịu thuế doanh

thu trên doanh số đó. Doanh nghiệp đứng ra nhập khẩu trực tiếp phải lập hai

hợp đồng: một hợp đồng mua hàng với nước ngoài và một hợp đồng liên

doanh với các doanh nghiệp khác.

1.4.3 Nhập khẩu ủy thác:

1.4.3.1 Khái niệm:

Nhập khẩu ủy thác là hoạt động hình thành giữa một doanh nghiệp có

vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu nhập khẩu một loại hàng hóa nhưng lại

không có quyền tham gia nhập khẩu trực tiếp đã ủy thác cho một doanh

nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu

theo yêu cầu của mình. Bên ủy thác sẽ tiến hành đàm phán với nước ngoài để

nhập khẩu hàng hóa theo yêu cầu của bên ủy thác và được nhận một khoản

thù lao gọi là phí ủy thác. Hay nói cách khác, nhập khẩu ủy thác là doanh

nghiệp nhập khẩu đóng vai trò trung gian nhập khẩu, làm thay cho đơn vị cần

nhập khẩu những thủ tục cần thiết để nhập hàng và hưởng phần trăm chi phí

ủy thác theo giá trị hàng nhập khẩu.

1.4.3.2 Đặc điểm:

Ở hình thức nhập khẩu này, doanh nghiệp trực tiếp nhập khẩu (bên

nhận ủy thác) không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch (nếu có), không

phải nghiên cứu thị trường hàng nhập khẩu mà chỉ đóng vai trò là đại diện

cho bên ủy thác giao dịch với bạn hàng nước ngoài, ký kết hợp đồng, làm thủ

tục nhập khẩu hàng cũng như thay mặt cho bên ủy thác khiếu nại, đòi bồi

thường với bên nước ngoài khi có tổn thất.

Bên nhận ủy thác phải tự nghiên cứu thị trường, lựa chọn mặt hàng, đối

tượng giao dịch và chịu mọi chi phí có liên quan.

Khi nhập khẩu ủy thác thì các doanh nghiệp nhận ủy thác phải lập hai

hợp đồng: một hợp đồng ngoại giữa doanh nghiệp nhập khẩu với đối tác nước

9

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!