Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

nhân sinh quan phật giáo và sự thể hiện của nó ở một số tín đồ đạo phật hiện nay
MIỄN PHÍ
Số trang
72
Kích thước
372.2 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1328

nhân sinh quan phật giáo và sự thể hiện của nó ở một số tín đồ đạo phật hiện nay

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP BÁCH CỦA ĐỀ TÀI

Đạo Phật truyền vào nước ta khoảng đầu Công nguyên và đã trở thành

một trong những hệ tư tưởng - tôn giáo có sức sống lâu dài, tồn tại cho đến

ngày nay, đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của con người Việt

Nam trong lịch sử. Đạo Phật với quan niệm nhân sinh độc đáo của nó trở

thành một bộ phận không thể thiếu của nền văn hoá dân tộc. Ngày nay,

trong bối cảnh công cuộc đổi mới của đất nước, do sự tác động mạnh mẽ

của nền kinh tế thị trường cùng với các học thuyết tư tưởng và tôn giáo khác,

đạo Phật đã có những biến chuyển mạnh mẽ cùng với sự chuyển mình lớn lao

của đất nước. Tình hình đó có tác động không nhỏ, theo cả hai chiều hướng

tích cực, tiêu cực, tới đời sống xã hội, tới lối sống, đạo đức của xã hội nước

ta. Đặc biệt, thủ đô Hà Nội là một trong hai trung tâm lớn của Phật giáo

Việt Nam cũng không nằm ngoài dòng chảy trên. Do yêu cầu khách quan

của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước cũng như đóng góp

một phần nhỏ vào nhiệm vụ xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bẩn

sắc dân tộc mà Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra trong Đại hội

Đảng lần thứ VIII, việc đứng trên lập trường triết học mác-xít để nghiên cứu

nhân sinh quan đạo Phật và sự thể hiện của nó ở các tín đồ đạo Phật hiện nay,

chỉ ra những yếu tố tích cực, phát hiện những giá trị tinh tuý của nó cũng như

những mặt hạn chế của nó chính là một việc làm có ý nghĩa thiết thực cả về

mặt lý luận cũng như về mặt thực tiễn. Với tầm quan trọng và ý nghĩa như

vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài: "Nhân sinh quan Phật giáo và sự thể hiện

của nó ở một số tín đồ đạo Phật hiện nay" (qua quan sát một số chùa ở Hà

Nội).

2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

1

Nhân sinh quan Phật giáo (nguyên thủy) là một đề tài đã được nhiều

nhà khoa học, Phật tử nghiên cứu, đặc biệt trong thời gian gần đây, cụ thể là:

- Năm 1984, Tiến sĩ Peter D. Santina viết cuốn sách "Fundamentals

of Buddhism" (Nền tảng của đạo Phật). Cuốn sách được Thích Tâm Quang

dịch sang tiếng Việt năm 1996. Trong cuốn sách này, tác giả trình bày 12

bài giảng về lịch sử ra đời của đạo Phật và những phần giáo lý căn bản nhất

của đạo Phật như: tứ diệu đế, lý nhân duyên, nghiệp, ngũ uẩn,... Tác giả

xuất phát từ quan niệm của một Phật tử ở phương Tây, có hiểu biết sâu sắc

phần giáo lý nên khi trình bày, tác giả cố gắng làm rõ từng nội dung trong

quan niệm nhân sinh của đạo Phật nguyên thủy.

- Năm 1984, Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện triết học xuất

bản cuốn "Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam" tập hợp

25 bài tham luận của các nhà nghiên cứu có tên tuổi của giới khoa học

nước ta như các giáo sư Trần Văn Giầu, Nguyễn Tài Thư, Nguyễn Đức Sự,

Trần Bạch Đằng, Hà Văn Tấn, Phan Đại Doãn, Trần Đình Hượu,... trong

cuộc hội thảo về "Mối quan hệ giữa Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt

Nam". Trong tập bài tham luận này, các tác giả đã phân tích và làm sáng tỏ

mối quan hệ tác động qua lại giữa Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam,

tính chất của Phật giáo và Phật giáo Việt Nam và đề cập đến một số tông

phái Phật giáo ở Việt Nam, ảnh hưởng của Phật giáo tới chủ nghĩa yêu

nước, tới văn hóa Việt Nam,...

- Năm 1988, Nhà xuất bản khoa học xã hội xuất bản cuốn "Lịch sử

Phật giáo Việt Nam" của Viện Triết học do PGS Nguyễn Tài Thư chủ biên.

Cuốn sách đề cập đến quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo vào

Việt Nam từ đầu Công nguyên cho đến nửa đầu thế kỷ XX.

- Năm 1994, tác giả Thích Tâm Thiện viết cuốn "Tìm hiểu nhân

sinh quan Phật giáo" do Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh xuất

bản. Đây là cuốn nhập môn Phật học. Tác giả trình bày Duyên sinh - Vô

2

ngã qua các thời kỳ, trong các bộ kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng Già,...

cuối cùng nhận diện Phật giáo trong sự đối chiếu với các học thuyết triết

học, thấy được vị trí và giá trị của Phật giáo với những nguyên lý nền tảng

của Phật giáo. Tuy nhiên, trong tác phẩm này, tác giả trình bày nhân sinh

quan Phật giáo nguyên thủy dưới góc độ một Phật tử.

- Năm 1997, TS Nguyễn Hùng Hậu viết cuốn "Lược khảo tư tưởng

Thiền Trúc Lâm Việt Nam" Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản. Trong

đó tác giả phân tích khía cạnh bản thể luận, quan niệm nhân sinh của các

thiền sư thời Trần như Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Tuệ Trung

Thượng sĩ, Pháp Loa, Huyền Quang,... Ở đây, tác giả mới đề cập giai đoạn

Phật giáo phát triển đến đỉnh cao - thời kỳ Nhà Trần.

Nhìn chung, các công trình trên đã nghiên cứu về nhân sinh quan

Phật giáo về mặt lý luận, nhưng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu

những biểu hiện của nhân sinh quan Phật giáo ở các tín đồ Phật giáo tại Hà

Nội - một trung tâm Phật giáo lớn của cả nước trong điều kiện công cuộc

đổi mới của đất nước hiện nay.

3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN

- Mục đích của luận văn là:

+ Trình bày một cách có hệ thống về nhân sinh quan Phật giáo

(nguyên thủy), rút ra những mặt tích cực và hạn chế của nó.

+ Phân tích những biểu hiện của quan niệm nhân sinh ở các tín đồ

đạo Phật hiện nay (tập trung ở tín đồ Hà Nội).

- Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn có nhiệm vụ:

+ Hệ thống hóa và phân tích những vấn đề thuộc nhân sinh quan

của Phật giáo như: Quan niệm về con người và cuộc đời con người, quan

niệm về giải thoát và con đường giải thoát.

3

+ Phân tích những biểu hiện của quan niệm nhân sinh Phật giáo ở

tín đồ đạo Phật Hà Nội hiện nay qua niềm tin tôn giáo, việc thực hiện lễ

nghi và sự thực hành giới luật của họ. Từ đó rút ra những kết luận về ảnh

hưởng của nó đến đời sống xã hội nước ta hiện nay.

4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ

nghĩa Mác - Lênin về triết học và lịch sử triết học, kết hợp với phương

pháp luận nghiên cứu triết học phương Đông.

- Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Kết hợp các phương pháp: phân

tích với tổng hợp, lôgic với lịch sử,, quan sát, phỏng vấn,...

5. CÁI MỚI CỦA LUẬN VĂN

Luận văn đã nghiên cứu một cách có hệ thống quan niệm nhân sinh

Phật giáo (nguyên thủy), chỉ ra những giá trị tích cực cùng những hạn chế

của nó; đi sâu nghiên cứu những biểu hiện của quan niệm nhân sinh đạo

Phật ở các tín đồ đạo Phật ở Hà Nội trong công cuộc đổi mới của đất nước

ta hiện nay.

6. Ý NGHĨA CỦA LUẬN VĂN

Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên

cứu, giảng dạy và tìm hiểu lịch sử tư tưởng Phật giáo Việt Nam.

7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận

văn gồm 2 chương, 6 tiết.

4

B. PHẦN NỘI DUNG

Chương 1

QUAN NIỆM CỦA PHẬT GIÁO (NGUYÊN THỦY)

VỀ NHÂN SINH

Phật giáo là một hệ thống triết học - tôn giáo. Nếu như các trường

phái triết học Hy Lạp cổ đại như Milê, Êlê chủ yếu bàn về những vấn đề

thế giới quan, bản thể luận như đi tìm bản nguyên của thế giới, bản chất của

thế giới, trạng thái của thế giới,... Còn những vấn đề về con người họ lại

bàn tương đối ít thì trái lại, ở Phật giáo, bên cạnh những tư tưởng, quan

niệm về thế giới, vấn đề nhân sinh quan không chỉ được đặt ra ngay từ đầu

mà còn là nội dung tư tưởng chủ yếu bao trùm lên toàn bộ hệ thống. Đặc

điểm này của đạo Phật bị chi phối bởi chính hoàn cảnh lịch sử của đất nước

Ấn Độ cổ đại - nơi đã sản sinh ra đạo Phật.

1.1. HOÀN CẢNH KINH TẾ - XÃ HỘI, VĂN HÓA - TƯ TƯỞNG CỦA

SỰ HÌNH THÀNH NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO

- Về điều kiện kinh tế - xã hội: Từ thế kỷ VI (trước Công nguyên)

đến thế kỷ I (sau Công nguyên), chế độ chiếm hữu nô lệ mang tính chất gia

trưởng kiểu phương Đông đã khá phát triển ở Ấn Độ. Do việc mở mang các

công trình thuỷ lợi, sản xuất nông nghiệp phát triển. Thủ công nghiệp tách

hẳn khỏi nông nghiệp. Nhiều thành phố trở thành trung tâm thủ công

nghiệp và thương nghiệp quan trọng thời kỳ này như Benares, Sravasti...

Nhiều con đường thương mại thuỷ bộ đã hình thành. Ấn Độ đã giao dịch

buôn bán khá rộng rãi với các nước trong vùng như Trung Quốc, Ả rập,

Trung Á... Nhưng xã hội Ấn Độ vẫn bị bóp nghẹt bởi tính chất kiên cố của

tổ chức công xã nông thôn cùng với chế độ phân biệt màu da, chủng tính

khắc nghiệt.

5

Xã hội Ấn Độ lúc này được chia thành bốn đẳng cấp cách biệt:

1. Tăng lữ thuộc đẳng cấp Bàlamôn; 2. Vua chúa thuộc đẳng cấp Kshatiya;

3. Nông dân, thợ thủ công và thương nhân thuộc đẳng cấp Vaishya; 4. Nô

lệ thuộc đẳng cấp Shudra. Bàlamôn và vua chúa là giai cấp thống trị; nông

dân, thợ thủ công, thương nhân và nô lệ thuộc giai cấp bị trị. Bốn đẳng cấp

này theo chế độ thế tập, cha truyền con nối tạo thành một tổ chức xã hội bất

công.

- Về văn hóa - tư tưởng: Ấn Độ cổ đại là một đất nước có một nền

triết học phong phú hết sức bề thế xuất hiện từ rất sớm. Ngay từ thế kỷ XV

trước công nguyên đã xuất hiện bộ kinh điển Rg Vêđa. Đó là những bài ca

tán có tính chất thần thoại nhưng đã bao hàm nhiều tư tưởng về vũ trụ và

nhân sinh quan. Tiếp theo trong khoảng 1000-800 năm trước công nguyên

là thời đại Brahman. Đến thời kỳ 800-600 năm trước công nguyên là triết

học Upanishad. Upanishad là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của

kinh Vêđa. Xu hướng chính của Upanishad là nhằm biện hộ cho học thuyết

duy tâm tôn giáo, vốn có trong kinh Vêđa về cái gọi là "tinh thần sáng tạo

tối cao" sáng tạo ra thế giới này. Upanshad cho rằng thế giới vô ngã

Brahman hay "tinh thần vũ trụ tối cao" là thực thể duy nhất, tồn tại vĩnh

viễn, là cái từ đó nảy sinh ra và chi phối mọi cái tồn tại. Atman (tiểu ngã)

chỉ là một phần hiện thân của Brahman (đại ngã); linh hồn sống của con

người chỉ là sự biểu hiện của "tinh thần tối cao" trong cơ thể con người. Vì

vậy, linh hồn cá biệt về bản chất là đồng nhất với "linh hồn tối cao" cũng

tồn tại vĩnh viễn, tuyệt đối, bất diệt. Trong Upanishad cũng đặt vấn đề là

chính do những ham muốn, dục vọng và những hành động của con người

nhằm thoả mãn những ham muốn trong đời sống trần gian đã gây những

hậu quả, gieo đau khổ cho kiếp này và cả những khiếp sau gọi là nghiệp

báo Karma. Do vậy linh hồn bất tử bị sự luân hồi nên không nhận ra và trở

về đồng nhất với chân bản của nó được. Muốn giải thoát linh hồn bất tử

khỏi sự chi phối của đời sống nhục dục, của thế giới hiện tượng cảm tính

6

như ảo ảnh thường biến, đạt tới sự đồng nhất với "tinh thần vũ trụ tối cao",

con người phải tu luyện hành động karma- yoga và tu luyện tri thức jâna￾yoga, nhận ra chân bản của mình.

Triết lý duy tâm tôn giáo của Upanishad giải thích căn nguyên của

thế giới bằng nguyên lý " tinh thần vũ trụ tối cao" tuyệt đối, bất diệt là cơ

sở cho những học thuyết triết học duy tâm sau này và đã đóng vai trò là cơ

sở lý luận cho đạo Bàlamôn ở Ấn Độ cổ đại. Kinh Upanishad đã đề cập đến

những vấn đề có ý nghĩa triết học thực sự như mối quan hệ giữa tinh thần

vũ trụ (Brahman) và linh hồn cá thể (Atman), Thuyết luân hồi, nghiệp,

nhân quả v.v...

Tóm lại, thế giới quan thần thoại, tín ngưỡng tôn giáo, chủ nghĩa

duy tâm trong thánh kinh Vêđa, kinh Upanishad và đạo Bàlamôn đã trở

thành hệ tư tưởng thống trị đời sống tinh thần của Ấn Độ cổ. Uy thế của nó

mạnh mẽ tới mức, tư tưởng triết lý duy tâm ấy được mệnh danh là tư tưởng

chính thống của Ấn Độ cổ và tất cả những môn phái triết học vô thần, duy

vật, chống lại uy thế của khinh Vêđa và triết lý tôn giáo Bàlamôn đều bị coi

là những tư tưởng triết học không chính thống. Sự thống trị khắc nghiệt về

xã hội, chính trị, tư tưởng trên đã làm nảy sinh những mâu thuẫn sâu sắc

trong đời sống xã hội và tất yếu dẫn đến sự phản kháng của quần chúng lao

động đòi hỏi một sự tự do, công bằng, bình đẳng xã hội. Đây chính là

những nhu cầu của hiện thực lịch sử làm xuất hiện các trường phái tư tưởng

mới ở Ấn Độ trong thời kỳ này. Đạo Phật xuất hiện chính trong bối cảnh

lịch sử trên với tư cách là một hệ tư tưởng phản đối chế độ phân biệt đẳng

cấp xã hội, phủ nhận uy thế của kinh Vêđa, chống giáo lý duy tâm hoang

đường của Bàlamôn giáo, bác bỏ uy quyền thần thánh và phương pháp tu

hành khổ hạnh, xây dựng niềm tin vào chính con người. Nó là sự khẳng

định một đạo lý, một đường hướng cứu khổ mới cho con người.

Theo các sử liệu ghi lại, người sáng lập ra Phật giáo là Thích-ca￾mâu-ni, có tên thật là Siddhartha (Tất-đạt-đa), họ là Gautama (Gô-ta-ma),

7

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!