Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng Dân sự
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THU SƢƠNG
NGUYÊN TẮC CUNG CẤP CHỨNG CỨ
VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYÊN TẮC CUNG CẤP CHỨNG CỨ
VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Định hƣớng nghiên cứu
Mã số CN: 8380103
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Hải An
Họ tên học viên: Nguyễn Thị Thu Sƣơng
Lớp: Cao học Luật Dân sự và Tố tụng dân sự, Khóa 30
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được thực hiện
dưới sự hướng dẫn khoa học của Ts. Nguyễn Hải An. Những luận điểm, ý tưởng,
nhận xét đánh giá của các tác giả, cơ quan tổ chức khác sử dụng trong Luận văn đều
đã được trích dẫn rõ ràng, đầy đủ. Những kết luận nghiên cứu được trình bày trong
Luận văn này là trung thực và chưa từng được nghiên cứu dưới bất cứ hình thức
nào.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của mình.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 17 tháng 7 năm
2020
Tác giả Luận văn
NGUYỄN THỊ THU SƢƠNG
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật Tố tụng dân sự : BLTTDS
Giám đốc thẩm : GĐT
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
: GCN
Hội đồng xét xử : HĐXX
Tòa án nhân dân : TAND
Tòa án nhân dân cấp cao : TANDCC
Tố tụng dân sự : TTDS
Tố tụng hình sự : TTHS
Ủy ban nhân dân : UBND
Viện kiểm sát nhân dân : VKSND
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGUYÊN TẮC CUNG CẤP
CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ......................10
1.1. Khái quát về nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng
dân sự .......................................................................................................................10
1.2. Mối liên hệ giữa nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh với các
nguyên tắc khác trong tố tụng dân sự...................................................................19
1.3. Nội dung của nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh theo quy định
của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam ................................................................26
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1........................................................................................36
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ KIẾN NGHỊ
NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẢM BẢO NGUYÊN
TẮC CUNG CẤP CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN
SỰ .............................................................................................................................37
2.1. Về đảm bảo quyền và nghĩa vụ của ngƣời khởi kiện khi giao nộp tài liệu,
chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện .........................................................................37
2.2. Về đảm bảo trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền ...........................................................................................51
2.3. Về đảm bảo trách nhiệm của Tòa án trong việc hỗ trợ đƣơng sự thu thập,
cung cấp tài liệu, chứng cứ.....................................................................................58
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2........................................................................................68
KẾT LUẬN CHUNG..............................................................................................69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC SỐ 01. DANH MỤC BẢN ÁN
PHỤ LỤC SỐ 02. TÀI LIỆU KHÁC
PHỤ LỤC SỐ 03. BẢNG THỐNG KÊ
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong suốt quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của pháp luật Việt Nam
nói chung và pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam nói riêng, Nhà nước ta luôn hướng
đến việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mọi chủ thể. Theo đó, khi cá nhân,
pháp nhân hay chủ thể khác cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
phạm thì được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ. Việc khởi kiện này được
thực hiện thông qua phương tiện là “trình tự, thủ tục, tố tụng dân sự”. Và “để xây
dựng một thủ tục tố tụng dân sự dân chủ, gần dân, thân thiện với dân thì ngay từ
khi chắp bút soạn thảo pháp luật, nhà lập pháp đã phải ý thức được sứ mệnh cao cả
và bổn phận thiêng liêng của mình với xã hội. Pháp luật tố tụng dân sự được xây
dựng không phải là những định lệ phiền toái như dân gian quan niệm mà phải là
phương tiện hữu hiệu để người dân có thể sử dụng trong việc bảo vệ quyền lợi của
mình. Cho nên nhà lập pháp khi xây dựng nên những định lệ này phải đứng từ góc
nhìn nhân bản để ngăn chặn hay loại bỏ những nhân tố tiêu cực có thể nảy sinh từ
phía người tiến hành tố tụng hoặc các tụng nhân”
1
. Để thực hiện những nhiệm vụ
quan trọng này đòi hỏi phải đáp ứng nhiều yếu tố khác nhau, song một trong những
yếu tố quan trọng là yêu cầu các chủ thể phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của Bộ
luật Tố tụng dân sự, trong đó có nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh. Đây
được xem như là nguyên tắc cơ bản mang tính chất nền tảng và có tính chỉ đạo
xuyên suốt trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án dân sự, yêu cầu mọi chủ thể
trong xã hội tôn trọng, nghiêm chỉnh chấp hành.
Nghiên cứu quy định trong pháp luật tố tụng dân sự ở một số quốc gia trên thế
giới, có thể thấy rằng dù hoạt động xét xử của Tòa án được vận hành theo mô hình
tố tụng xét hỏi (thẩm vấn) (tố tụng xét hỏi là mô hình tố tụng ở những quốc gia theo
truyền thống luật dân sự, như Pháp, Đức…Trong mô hình này, Thẩm phán, công tố
viên có vị trí trung tâm trong việc chứng minh vụ án, luật sư chỉ đóng vai trò thứ
yếu
2
) hay theo mô hình tố tụng tranh tụng (tố tụng tranh tụng là mô hình tố tụng ở
những quốc gia theo truyền thống thông luật, như: Anh, Mỹ, Úc… Mô hình này dựa
1 Đỗ Thị Hồng Vân, Nguyễn Thị Thu Hồng (2016), “Đặc san tuyên truyền pháp luật chủ đề Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015”, Hội đồng phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật trung ương, số 02, tr. 7.
2 Ngô Cường, “Tố tụng tranh tụng và tố tụng xét hỏi”, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/nhin-ra-nuoc-ngoai/totung-tranh-tung-va-to-tung-xet-hoi, truy cập ngày 06/11/2019.
2
trên nguyên tắc “các bên trình bày”3
) thì pháp luật các nước cũng đều đề cao vai trò
của nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh.
Trải qua quá trình tồn tại, phát triển cùng với từng thời kỳ của đất nước, pháp
luật tố tụng dân sự nói chung và quy định về nguyên tắc cung cấp chứng cứ và
chứng minh nói riêng đã có những điều chỉnh theo hướng ngày càng tiến bộ và
gắn liền với thực tiễn hơn. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 được thông qua tại kỳ
họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII, có hiệu lực từ ngày 01/7/2016 được xem như là
“bước chuyển mình” quan trọng của pháp luật tố tụng dân sự nước nhà. Xét ở góc
độ bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân, cơ quan tổ chức, có thể thấy rằng trải qua
hơn 05 năm được đưa vào thực tiễn, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã có những
đóng góp quan trọng, đơn cử như: trình tự, thủ tục tố tụng đã theo hướng công khai,
đơn giản hóa hơn những quy định cũ, tạo điều kiện thuận lợi cho người tham gia tố
tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình; vai trò, trách nhiệm của cá nhân, cơ
quan, tổ chức trong hoạt động tố tụng dân sự đã được đề cao,...
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, việc thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự
nói chung và chế định về nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố
tụng dân sự nói riêng cũng còn nhiều tồn tại, vướng mắc. Điển hình là nhiều yêu
cầu giải quyết tranh chấp của người dân chưa được đảm bảo thực hiện vì gặp khó
khăn trong việc thu thập, cung cấp chứng cứ; đơn khởi kiện bị trả lại với lý do
không đầy đủ tài liệu, chứng cứ trong khi người dân đã thực hiện hầu như tất cả các
biện pháp để thu thập chứng cứ; thậm chí khi vụ việc đã được thụ lý, giải quyết
bằng một bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án thì quyền lợi của đương sự
cũng không được đảm bảo thực thi khi các vụ án bị xét xử sơ thẩm, phúc thẩm,
giám đốc thẩm nhiều lần, thậm chí có nhiều vụ việc thời gian giải quyết đã hơn 10
năm nhưng vẫn “chưa có hồi kết”, gây tốn kém về thời gian, chi phí cho đương sự,
Nhà nước mà lý do liên quan đến việc không tuân thủ nguyên tắc cung cấp chứng
cứ, chứng minh là không thể không nhắc đến.
Những hạn chế, bất cập nêu trên có nguyên nhân xuất phát từ việc pháp luật tố
tụng dân sự còn nhiều hạn chế, nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh dù đã
hoàn thiện hơn so với quy định cũ và được ghi nhận thành nguyên tắc cơ bản tuy
nhiên hiện nay chưa có một văn bản hướng dẫn hoàn chỉnh để chi tiết hóa nguyên
3 Ngô Cưòng, “Tố tụng tranh tụng và tố tụng xét hỏi”, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/nhin-ra-nuoc-ngoai/totung-tranh-tung-va-to-tung-xet-hoi, truy cập ngày 11/7/2020.
3
tắc này. Cụ thể là các quy định tại Chương VII của Bộ luật Tố tụng dân sự hiện
hành còn chưa rõ ràng, thậm chí thiếu cơ chế để áp dụng.
Do đó nhằm tạo điều kiện cho việc áp dụng thống nhất các quy định của pháp
luật về chứng cứ và chứng minh, việc nghiên cứu làm rõ một số quy định là cần
thiết. Trên cơ sở đi sâu nghiên cứu, phân tích thực tiễn áp dụng quy định về nguyên
tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự hiện nay kết hợp liên hệ,
đối sánh với pháp luật một số quốc gia là cơ sở quan trọng để tác giả đưa ra những
đánh giá, kiến nghị, góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
Vì những lý do trên mà tác giả đã chọn vấn đề “Nguyên tắc cung cấp chứng
cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự” làm đề tài luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự nói chung và nguyên
tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự nói riêng là mảng đề tài
đã được nhiều nhà khoa học, tác giả quan tâm, nghiên cứu theo nhiều góc độ và
hình thức khác nhau từ khái quát đến cụ thể. Tác giả xin liệt kê một số công trình
như sau:
Dưới hình thức sách chuyên khảo, có các công trình nghiên cứu sau:
- Đoàn Tấn Minh, Nguyễn Ngọc Điệp (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015, Nxb. Lao động.
Tại công trình nghiên cứu này, nhóm tác giả Đoàn Tấn Minh, Nguyễn Ngọc
Điệp đã có những phân tích, đánh giá, bình luận dựa trên các quy định của pháp luật
hiện hành và thực tiễn xét xử liên quan đến việc áp dụng Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015, qua đó nhằm làm rõ vai trò tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức
mà các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hướng đến, trong đó có chế định
chứng cứ và chứng minh.
- Nguyễn Thị Hoài Phương (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Nxb. Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam.
Công trình nghiên cứu đã đưa ra một cái nhìn tổng quát về một số điểm mới
của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 so với Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004.
Trong đó có bình luận điểm mới về nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh
cũng như những quy định khác về chứng cứ và chứng minh.
4
- Nguyễn Ngọc Điệp (2019), Phương pháp kỹ năng nghiên cứu và đánh giá
chứng cứ trong tố tụng dân sự và 26 án lệ của Hội đồng thẩm phán, Nxb. Hồng
Đức, Hội Luật gia Việt Nam.
Công trình nghiên cứu đã làm rõ vai trò, ý nghĩa cũng như có những đề xuất
nhằm nâng cao hiệu quả, tính thiết thực của hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng
cứ trong hoạt động giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án nói chung và những người
tiến hành tố tụng nói riêng trong điều kiện hiện nay.
Dưới hình thức Luận văn Thạc sĩ Luật học, có các công trình nghiên cứu sau:
- Hồ Quyết Tiến (2015), Quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án dân sự, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh.
Mặc dù nghiên cứu dưới góc độ quyền và nghĩa vụ của Tòa án nhưng công
trình này có một phần đã phân tích, làm rõ các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa
vụ của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm như: quyền yêu cầu đương sự giao
nộp, bổ sung chứng cứ trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án dân sự; quyền ủy thác
thu thập chứng cứ trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án dân sự; quyền và nghĩa vụ
thu thập chứng cứ của Tòa án; bất cập, vướng mắc trong việc yêu cầu cá nhân, cơ
quan, tổ chức cung cấp chứng cứ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.
- Trương Việt Hồng (2015), Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án sơ
thẩm trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Nguyễn Văn Hiểu (2015), Hoạt động thu thập chứng
cứ của Tòa án phúc thẩm trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, Luận văn Thạc sĩ
Luật học, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Tại 02 công trình này, các tác giả đã nghiên cứu quy định của pháp luật về
hoạt động thu thập chứng cứ do Tòa án cấp sơ thẩm thực hiện trong giải quyết vụ án
dân sự. Qua đó đã làm rõ và đưa ra các kiến nghị về trách nhiệm thu thập chứng cứ
của Tòa án như Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa thống nhất như thế nào là
trường hợp Tòa án thu thập chứng cứ; trách nhiệm thu thập chứng cứ của Tòa án
chưa rõ ràng; Tòa án cấp sơ thẩm không thực hiện đầy đủ việc thu thập chứng cứ,
dẫn đến nhiều trường hợp vụ án bị xem xét một cách phiến diện, bản án được tuyên
không chính xác, chưa đảm bảo công bằng xã hội, bị cấp phúc thẩm hay giám đốc
thẩm hủy án để xét xử lại; Về thời hạn thu thập chứng cứ; Vấn đề thu thập chứng cứ
thông qua xem xét, thẩm định tại chỗ; yêu cầu tổ chức, cá nhân giao nộp chứng cứ
5
cho Tòa án. Ngoài ra, các luận văn đã làm rõ quá trình hình thành và phát triển các
quy định về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong pháp luật tố tụng dân sự,
nghiên cứu pháp luật tố tụng dân sự một số quốc gia để tham khảo, hoàn thiện quy
định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
- Nguyễn Quang Anh (2015), Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt
Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội.
Trong công trình này, tác giả Nguyễn Quang Anh đã phân tích khá sâu về chế
định chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, đưa ra những
kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập trong quá trình thực hiện các quy định của
Bộ luật này về chứng cứ. Qua đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định
của pháp luật tố tụng dân sự về chứng cứ.
- Nguyễn Hữu Lâm (2018), Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ trong tố tụng dân sự, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh.
Luận văn đã giải thích và chỉ rõ những hạn chế, bất cập của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
trong tố tụng dân sự, qua đó đưa ra những kiến nghị về những vấn đề chưa cụ thể,
chưa phù hợp.
Dưới hình thức bài báo khoa học, bài viết đăng trên các Tạp chí chuyên
ngành, có thể kể đến các bài viết như:
- Nguyễn Thị Thu Hà (2018), “Bình luận về nguyên tắc cung cấp chứng cứ
và chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015”, Tạp chí Nghiên cứu Lập
pháp, số 10 (362).
Trong bài viết này, tác giả đã phân tích một số nội dung trong quy định về
nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh tại Điều 6 Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015, qua đó khẳng định ý nghĩa của hoạt động chứng minh và cung cấp chứng
cứ trong tố tụng dân sự (có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ việc dân sự và tạo điều
kiện cho đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình).
- Ngô Vĩnh Bạch Dương (2015), “Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng”, Tạp
chí Nghiên cứu Lập pháp, số 07 (287); Phan Thị Thu Hà (2015), “Những khó khăn,
vướng mắc khi thực hiện quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về chứng
cứ, chứng minh và một số đề xuất, kiến nghị”, Tạp chí Tòa án nhân dân Tối cao;
6
Đinh Tuấn Anh (2016), “Quy định mới của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về
chứng cứ và chứng minh”, Tạp chí Kiểm sát, số 18; Đặng Thanh Hoa (2017), “Bàn
về phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vụ án dân
sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân Tối cao, số 10; Hà Thái Thơ (2013), “Một số ý kiến
về trách nhiệm thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Nghề
Luật, Học viện Tư pháp, số 05.
Các công trình nêu trên đã phân tích những vấn đề còn khó khăn, vướng mắc
khi thực hiện quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về chứng cứ và chứng
minh, qua đó đưa ra một số kiến nghị liên quan đến các vấn đề như: Thời gian giao
nộp, gửi tài liệu chứng cứ; quyền xác minh, thu thập chứng cứ của cá nhân, cơ
quan, tổ chức; Biện pháp thu thập chứng cứ; Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, công
khai chứng cứ và hòa giải.
- Nguyễn Thanh Tùng (2015), “Một số bất cập về chứng cứ trong Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật; Đặng Quang Dũng, Nguyễn
Thị Minh (2016), “Về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng
cứ tại cấp sơ thẩm trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015”, Tạp chí Tòa án nhân
dân Tối cao, số 14.
Các công trình đã đánh giá những quy định về chế định chứng cứ trong Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 so với Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 và xác định
Bộ luật mới vẫn tồn tại một số quy định hạn chế như: giao nộp chứng cứ, giám định
chứng cứ, yêu cầu cơ quan tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ, bảo vệ
chứng cứ. Qua đó các tác giả đã đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện.
Từ những nội dung đã trình bày, viện dẫn nêu trên, đánh giá một cách tổng
quát thì mảng đề tài chứng cứ, chứng minh trong tố tụng dân sự đã được rất nhiều
tác giả tập trung nghiên cứu dưới nhiều góc độ, hình thức khác nhau, từ các bài báo
khoa học trên các Tạp chí chuyên ngành đến Luận văn Thạc sĩ, Luận án Tiến sĩ và
sách chuyên khảo. Sau khi liệt kê những nội dung các công trình nghiên cứu đã đề
cập nêu trên, tác giả nhận thấy một vài điểm như sau:
Một là, các công trình nghiên cứu nêu trên tập trung khai thác chủ yếu các nội
dung như: Hoạt động thu thập chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự, đánh
giá chứng cứ, hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án qua các giai đoạn, phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, công khai chứng cứ và hòa giải, chế định chứng minh trong
tố tụng dân sự,…
7
Hai là, đối với các bài viết về nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh
trong tố tụng dân sự thì chỉ có một số bài báo khoa học đăng trên Tạp chí chuyên
ngành và bài Bình luận điểm mới của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 là có nhắc
đến nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự, ngoài ra
chưa có bài viết nào khai thác vấn đề về nguyên tắc cung cấp chứng cứ chứng minh
ở các cấp độ cao hơn như Luận văn Thạc sĩ, Luật án Tiến sĩ hay sách chuyên khảo.
Như vậy, chế định chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự nói chung và
nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự nói riêng đã
được nhiều học giả, nhà nghiên cứu quan tâm và mỗi tác giả lại chọn cho mình một
hướng tiếp cận riêng. Mặc dù cho đến thời điểm hiện tại chưa có một công trình nào
nghiên cứu một cách toàn diện và có chiều sâu về nguyên tắc cung cấp chứng cứ và
chứng minh song những kết quả đạt được từ các công trình nghiên cứu nêu trên đều
ít nhiều mang những giá trị khoa học nhất định. Tạo điều kiện cho tác giả có sự hình
dung rõ ràng hơn về vai trò, ý nghĩa của nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng
minh trong tố tụng dân sự và là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả trong
suốt quá trình thực hiện Luận văn này.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm phân tích, đánh giá, luận giải để làm rõ về nguyên
tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự, cụ thể:
Thứ nhất, phân tích một cách khái quát những vấn đề chung về nguyên tắc
cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự như: khái niệm, đặc điểm, ý
nghĩa, mối liên hệ giữa nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh và một số
nguyên tắc khác trong tố tụng dân sự;
Thứ hai, nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam, kết hợp so sánh với pháp luật nước ngoài về nguyên tắc cung cấp
chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự để rút ra những nhận xét, đánh giá,
những bài học tham khảo;
Thứ ba, phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề còn vướng mắc, bất cập trong
quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, thực tiễn áp dụng của Tòa án liên quan
đến việc tuân theo và áp dụng nguyên tắc cung cấp cung cấp chứng cứ, chứng minh
trong thực tiễn xét xử. Trên cơ sở đó đưa ra các kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp
luật quốc gia.
8
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1.Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự là một vấn đề lớn, có
nhiều hướng tiếp cận và góc độ nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên, nhằm đi sâu phân
tích, làm rõ hơn các khía cạnh của đề tài ở góc độ “nguyên tắc”. Trong khuôn khổ
luận văn Thạc sĩ Luật học, tác giả chỉ giới hạn ở phạm vi nguyên tắc cung cấp
chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 với các nội dung cụ thể như sau: những vấn đề cơ bản về nguyên
tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự theo quy định của pháp
luật Việt Nam và quy định pháp luật một số quốc gia; làm rõ việc áp dụng các quy
định này trong thực tiễn, rút ra những hạn chế, bất cập. Qua đó đưa ra những kiến
nghị góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành và việc áp dụng luật
của cơ quan xét xử.
4.2.Phƣơng pháp nghiên cứu
Để làm sáng tỏ nội dung đề tài nghiên cứu, tác giả đã sử dụng kết hợp nhiều
phương pháp, trong đó chủ yếu là các phương pháp phân tích, chứng minh, tổng
hợp, so sánh, bình luận nhằm làm rõ đối tượng được nghiên cứu và đưa ra các kiến
nghị cụ thể. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác
như: phương pháp logic, phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp liệt
kê,…
Những phương pháp này được vận dụng một cách phù hợp với mục đích và
nội dung nghiên cứu của luận văn, được thể hiện cụ thể như sau:
- Phương pháp phân tích, phương pháp chứng minh, phương pháp diễn giải,
phương pháp tổng hợp được sử dụng xuyên suốt trong luận văn, cụ thể: Tại mục
1.1, 1.2, 1.3 của Chương 1 thì các phương pháp này được sử dụng để làm rõ khái
niệm, đặc điểm, ý nghĩa, nội dung nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh
theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và một số quốc gia. Ngoài ra,
phương pháp này cũng đã phát huy hiệu quả trong việc trình bày thực tiễn áp dụng
pháp luật nhằm đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện.
- Phương pháp bình luận được sử dụng chủ yếu ở Chương 2 qua việc phân
tích, đánh giá đường lối xử lý của Tòa án thông qua quá trình tiếp nhận, thụ lý và
giải quyết vụ việc qua các cấp xét xử khác nhau. Từ đó, liên hệ với quy định của
9
pháp luật hiện hành để rút ra những điểm còn hạn chế, bất cập, thiếu khả thi. Là cơ
sở để tác giả đưa ra các đề xuất, kiến nghị góp phần hoàn thiện một số quy định
hiện hành.
- Phương pháp so sánh được sử dụng ở mục 1.2 của Chương 1 nhằm làm rõ
điểm khác biệt và mối liên hệ chặt chẽ giữa nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng
minh với các nguyên tắc khác trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Phương pháp
này cũng được sử dụng tại mục 1.3 của Chương 1 để làm sáng tỏ một số điểm tương
đồng và khác biệt trong quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật một số quốc
gia về nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Phần nội dung, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và
các Phụ lục. Luận văn có kết cấu gồm 2 chương:
Chương 1. Những vấn đề cơ bản về nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng
minh trong tố tụng dân sự.
Chương 2. Thực trạng áp dụng pháp luật và kiến nghị những giải pháp hoàn
thiện pháp luật về đảm bảo nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố
tụng dân sự.
10
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGUYÊN TẮC CUNG CẤP
CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái quát về nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố
tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng
dân sự
Thuật ngữ nguyên tắc (principium) được sử dụng lần đầu dưới thời La Mã có
nghĩa là cơ sở, cốt lõi, nền tảng
4
. Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “nguyên tắc” dùng
để chỉ những quy định, phép tắc, tiêu chuẩn làm cơ sở, chỗ dựa để xem xét, làm
việc
5
. Theo Từ điển Tiếng Việt, nguyên tắc được hiểu là điều cơ bản định ra, nhất
thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm6
.
Từ các khái niệm nêu trên, có thể hiểu rằng nguyên tắc là những điều cơ bản,
cốt lõi đã được định ra hoặc được quy định, mang tính bắt buộc phải tuân theo đối
với các chủ thể khi thực hiện một hoạt động cụ thể. Do vậy, trong thực tiễn, khi
thực hiện bất kỳ hoạt động có mục đích nào đòi hỏi các chủ thể phải xác định được
các nguyên tắc thông qua việc đặt ra những tiêu chuẩn, quy định đồng thời phải
tuân thủ, chấp hành triệt để.
Tương ứng với mỗi lĩnh vực khác nhau sẽ có những nguyên tắc khác nhau
điều chỉnh, nó trở thành kim chỉ nam với những yêu cầu mang tính chỉ đạo, định
hướng chung trong việc xây dựng và thực hiện lĩnh vực mà nó điều chỉnh. Điều này
cũng không được xem là ngoại lệ trong lĩnh vực pháp luật nói chung và hoạt động
tố tụng dân sự (Sau đây gọi là TTDS) nói riêng. Trên thực tế “các tư tưởng pháp lý
chỉ có giá trị bắt buộc nếu được thể hiện dưới hình thức quy phạm pháp luật. Do
vậy, các nguyên tắc của một ngành luật thường được quy định trong các văn bản
pháp luật về ngành luật đó làm cơ sở cho việc thực hiện và được quy định dưới
dạng quy phạm chung”7
. Luật TTDS cũng là một ngành luật cụ thể trong hệ thống
pháp luật Việt Nam cho nên cũng mang những đặc điểm chung này.
4 Đinh Quốc Trí (2012), Nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS, Luận văn Thạc
sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội, tr. 3.
5 Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa Thông tin, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 217.
6 Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 694.
7 Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật TTDS Việt Nam, Nguyễn Công Bình (chủ biên), Nxb. Công an
nhân dân, tr. 36.