Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học, là vũ khí cơ bản của nhà văn.
PREMIUM
Số trang
68
Kích thước
835.0 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1410

Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học, là vũ khí cơ bản của nhà văn.

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

KHOA NGỮ VĂN

----------

NGUYỄN THỊ THANH TUYỀN

Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học, là vũ

khí cơ bản của nhà văn

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

2

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

“Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học, là vũ khí cơ bản của nhà văn”. Ngôn

ngữ đóng vai trò quan trọng tạo nên dấu ấn, phong cách riêng của mỗi nhà văn. Cách

sử dụng ngôn ngữ của mỗi người đều phản ánh sự hiểu biết của chính người đó về thế

giới khách quan, được biểu hiện thông qua ngôn ngữ.

Sự thành công của mỗi tác phẩm văn học chính là ở chỗ đem đến cho người đọc

sự chia sẻ cảm thông, làm cho người đọc có thể vui với cái vui của nhân vật, có thể

buồn với cái buồn của nhân vật, xót xa với những số phận oan trái, căm hờn với

những cảnh đời nghiệt ngã, đau đớn với nỗi đau của nhân vật. Không những thế người

đọc còn cảm nhận được tâm tư tình cảm của tác giả thông qua hệ thống hình tượng và

nội dung của tác phẩm. Muốn đạt được sự thành công như vậy đòi hỏi mỗi nhà văn

phải am hiểu cuộc sống, có vốn từ ngữ phong phú, sử dụng các phương tiện ngôn ngữ

tinh xảo có khả năng tác động đến cảm xúc, suy nghĩ của người đọc. Một tác phẩm

văn học nghệ thuật được công nhận là hay, là thành công không chỉ được đánh giá bởi

nội dung phản ánh của tác phẩm đó, mà nó còn phụ thuộc vào cách lựa chọn và sắp

xếp từ ngữ của tác giả. Như vậy, sự sắp xếp, phân bố và vận dụng ngôn ngữ một cách

hợp lý, chuẩn xác, có giá trị thẩm mỹ là khá quan trọng tạo nên sự thành công cho

một tác phẩm.

Trong nền văn xuôi đương đại Việt Nam, Ma Văn Kháng là nhà văn có rất nhiều

đóng góp lớn lao. Từ truyện ngắn đầu tay - Phố cụt đăng trên báo Văn nghệ năm

1961, cho đến nay Ma Văn Kháng đã có đến 20 tập truyện ngắn, 12 cuốn tiểu thuyết

và 4 truyện viết cho thiếu nhi. Với phong cách làm việc nghiêm túc, không ngừng tìm

3

tòi, đổi mới trong lao động sáng tạo nghệ thuật cũng như trau dồi nghệ thuật ngôn từ,

ông đã khẳng định được vị trí vững chắc của mình trên văn đàn văn học.

Bên cạnh sự thành công rựa rỡ của thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn cũng chiếm

một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của Ma Văn Kháng. Có thể nói

truyện ngắn đã đem đến vinh quang cho nhà văn ngay từ buổi đầu khởi nghiệp:

Truyện ngắn Xa Phủ được giải nhì (cuộc thi không có giải nhất) cuộc thi viết truyện

ngắn 1967 - 1968 của tuần báo Văn nghệ; tập truyện Trăng soi sân nhỏ được giải

thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1995 và giải thưởng Đông Nam Á năm 1998;

truyện San Cha Chải được giải cây bút vàng của Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt

Nam 1996 - 1998. Không chỉ thành công ở đề tài miền núi, Ma Văn Kháng còn thành

công ở đề tài thành thị. Các tập truyện Ngày đẹp trời (1986), Trái chín mùa thu

(1988), Heo may gió lộng (1990), Trăng soi sân nhỏ (1995) … đã thể hiện những giá

trị nhân sinh sâu sắc và những trăn trở đầy trách nhiệm của nhà văn về cuộc đời và

con người.

Bằng quan niệm viết văn là việc “đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn”, Ma Văn

Kháng đã tạo cho mình một tiếng nói, một phong cách nghệ thuật riêng. Ma Văn

Kháng là nhà văn không ngừng đổi mới trong sáng tạo nghệ thuật. Chính vì thế, lâu

nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về truyện ngắn của ông. Tuy nhiên đi sâu về

một khía cạnh ngôn ngữ trong truyện ngắn Ma Văn Kháng vẫn chưa có một công

trình chuyên biệt nào.

Với mong muốn góp thêm tiếng nói vào sự khẳng định nghệ thuật sử dụng ngôn

từ trong sáng tác của Ma Văn Kháng, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài: “Định ngữ

nghệ thuật trong câu văn Ma Văn Kháng qua một số truyện ngắn”. Nghiên cứu thành

công vấn đề này, luận văn mong muốn góp phần khẳng định về một phương diện của

tài năng cũng như sự độc đáo trong ngôn ngữ Ma Văn Kháng trên hành trình sáng tạo

nghệ thuật.

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

Ma Văn Kháng là một nhà văn lớn có những đóng góp đáng kể vào công cuộc

đổi mới của nền văn xuôi đương đại Việt Nam. Lâu nay đã có khá nhiều công trình

4

nghiên cứu về tiểu thuyết và truyện ngắn Ma Văn Kháng. Tuy nhiên, vì đề tài chúng

tôi nghiên cứu truyện ngắn nên chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu lịch sử nghiên cứu về

truyện ngắn của ông.

Những vấn đề liên quan đến nội dung của truyện ngắn Ma Văn Kháng đã có rất

nhiều công trình nghiên cứu, phê bình, cũng như các bài viết được đăng trên báo và

tạp chí văn học. Có thể kể đến tên của một số nhà nghiên cứu về mảng này như

Nguyễn Đại (Đọc sách Xa Phủ đăng trên báo Nhân dân số ra ngày 5/10/1970),

Nguyễn Nguyên Thanh (Ngày đẹp trời - tính dự báo về những tình thế xã hội, đăng

trên Báo Văn nghệ số 21 ngày 23/5/1987), Trần Bảo Hưng (Đọc Heo may gió lộng,

đăng trên Báo Văn nghệ số 47/1993), Lã Nguyên (Khi nhà văn đào bới bản thể ở

chiều sâu tâm hồn đăng trên tạp chí văn học số 9/1999), Nguyễn Ngọc Thiện (Một

cây bút văn xuôi sung sức, một đời văn cần mẫn), Nguyễn Văn Chỉ (Đọc Cỏ dại –

Truyện ngắn hay của Ma Văn Kháng, đăng trên báo Văn nghệ số 13 ngày 30/3/2002),

Phạm Duy Nghĩa (Phong cách văn xuôi miền núi của Ma Văn Kháng, đăng trên Tạp

chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam số 175 tháng 8 năm 2009) …

Nhưng những vấn đề liên quan đến nghệ thuật truyện ngắn Ma Văn Kháng thì số

lượng công trình nghiên cứu còn rất hạn chế. Chúng tôi có thể kể tên một số công

trình sau:

Trong bài viết Khi nhà văn đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn của Lã Nguyên,

bên cạnh việc nghiên cứu về khía cạnh nội dung, tác giả cũng đã đề cập đến một số

đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Ma Văn Kháng như: tính công khai bộc lộ chủ đề, sự

cố ý tô đậm tính cách nhân vật, việc lồng giai thoại vào cốt truyện, đưa thành ngữ tục

ngữ vào ngôn ngữ nhân vật.

Trong luận văn Giá trị tư tưởng và nghệ thuật truyện ngắn Ma Văn Kháng, tác

giả Đỗ Phương Thảo đã khảo sát và đưa ra một số kết luận về nghệ thuật xây dựng cốt

truyện như: sử dụng phép liệt kê, sử dụng các yếu tố dân gian, các yếu tố hoang

đường kỳ ảo …

Với đề tài Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi

mới, tác giả Nguyễn Thị Hải Yến đã tập trung khai thác các khía cạnh nghệ thuật của

5

truyện ngắn Ma Văn Kháng như: điểm nhìn trần thuật, không gian thời gian trần thuật

và giọng điệu, ngôn ngữ trần thuật.

Tác giả Phạm Mai Anh với đề tài Đặc điểm nghệ thuật của truyện ngắn Ma Văn

Kháng từ sau năm 1980 đã tập trung khai thác một số yếu tố nghệ thuật trong truyện

Ma Văn Kháng như: kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ. Tác giả chỉ ra những đặc điểm nghệ

thuật của truyện ngắn Ma Văn Kháng như: lối kết cấu mở, nghệ thuật đặc tả nhân vật,

sự phối hợp lời kể, lời tả, lời thuyết minh luận bàn.

Đặc biệt là công trình nghiên cứu của TS. Đào Thủy Nguyên Đặc điểm truyện

ngắn của Ma Văn Kháng về đề tài dân tộc và miền núi, tác giả đã đi sâu nghiên cứu

và khẳng định một cách đầy thuyết phục những vấn đề nhân sinh, thế sự, những thành

công đặc sắc về nghệ thuật xây dựng nhân vật và sử dụng ngôn từ trong truyện ngắn

viết về đề tài dân tộc và miền núi của Ma Văn Kháng.

Qua việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu về truyện ngắn Ma Văn Kháng,

chúng tôi nhận thấy vấn đề ngôn ngữ trong truyện ngắn Ma Văn Kháng ít nhiều

đã được đề cập đến tuy nhiên còn rất hạn chế. Và chưa có một công trình nào chọn

định ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng làm đối tượng nghiên cứu.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Định ngữ nghệ thuật trong các câu văn của Ma Văn Kháng

Phạm vi nghiên cứu: Hai mươi truyện ngắn được giới phê bình văn học đánh giá cao,

cụ thể như sau:

STT TÊN TÁC PHẨM STT TÊN TÁC PHẨM

1 Seo Ly, kẻ khuấy động tình trường 11 Trái chín mùa thu

2 Ông lão gác vườn và con chó Phúm 12 Người giúp việc

3 Tóc Huyền màu bạc trắng 13 San Cha Chải

4 Những người đàn bà 14 Ngày đẹp trời

5 Một chiều giông gió 15 Ngoại thành

6 Cây bồ kếp lá vàng 16 Giàng Tả

7 Cô giáo chủ nhiệm 17 Cỏ dại

6

8 Trăng soi sân nhỏ 18 Nợ đời

9 Heo may gió lộng 19 Mẹ và con

10 Vệ sĩ của quan Châu 20 Tình biển

Bảng 1: Các tác phẩm trong phạm vi nghiên cứu của đề tài

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Với đối tượng và phạm vi nghiên cứu được xác định như trên, nhiệm vụ chủ yếu

chúng tôi xác định trong luận văn này trước hết là khảo sát, thống kê và phân loại

định ngữ nghệ thuật được nhà văn sử dụng trong hai mươi truyện ngắn đã được lựa

chọn. Sau đó, chỉ ra vai trò và tác dụng của các định ngữ nghệ thuật trong việc khẳng

định tài năng và sự độc đáo của ngôn ngữ truyện ngắn Ma Văn Kháng.

5. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp nghiên cứu chính:

* Phương pháp khảo sát

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi tiến hành khảo sát cách sử dụng định ngữ

nghệ thuật của tác giả. Những cấp độ mà tác giả đề tài thực hiện khảo sát là: khảo sát

từng câu văn trong tác phẩm và khảo sát toàn bộ 20 truyện ngắn của nhà văn Ma Văn

Kháng đã được lựa chọn ở trên.

* Phương pháp thống kê, phân loại

Phương pháp thống kê dựa trên những khảo sát cụ thể giúp cho người nghiên

cứu tổng hợp được những số liệu minh chứng cho các nhận định, đánh giá. Với số

lượng 20 truyện ngắn, phương pháp thống kê giúp người nghiên cứu thu thập số liệu

có hệ thống, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu.

* Phương pháp phân tích

Đây là phương pháp cơ bản nhất làm cơ sở cho việc nhận định, đánh giá bất kì

lĩnh vực nào của văn học trong khi nghiên cứu. Do mục đích của đề tài nên mức độ

phân tích toàn diện các tác phẩm có sự sâu cạn khác nhau. Tuy vậy, người nghiên cứu

luôn trung thành với nguyên tắc: nhà văn là chủ thể của hệ thống các tác phẩm. Toàn

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!