Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên Cứu Xây Dựng Phương Pháp Án Quy Hoạch Bảo Vệ Và Phát Triển Rừng Xã Quảng Sơn Huyện Đắk Glong Tỉnh Đắk Nông Giai Đoạn 2013 2020
PREMIUM
Số trang
113
Kích thước
1.1 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1345

Nghiên Cứu Xây Dựng Phương Pháp Án Quy Hoạch Bảo Vệ Và Phát Triển Rừng Xã Quảng Sơn Huyện Đắk Glong Tỉnh Đắk Nông Giai Đoạn 2013 2020

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

----------------------------

NGUYỄN VĂN HÀO

NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG PHƯƠNG ÁN QUY HOẠCH

BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG XÃ QUẢNG SƠN

HUYỆN ĐẮK GLONG TỈNH ĐẮK NÔNG

GIAI ĐOẠN 2013 - 2020

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Đồng Nai, 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

----------------------------

NGUYỄN VĂN HÀO

NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG PHƯƠNG ÁN QUY HOẠCH

BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG XÃ QUẢNG SƠN

HUYỆN ĐẮK GLONG TỈNH ĐẮK NÔNG

GIAI ĐOẠN 2013 - 2020

CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC

Mã số: 60.62.02.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. VŨ THẾ HỒNG

Đồng Nai, 2014

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa và trải dài theo nhiều vĩ độ, với

2/3 diện tích đất đồi núi, do đó tài nguyên rừng có vai trò đặc biệt trong công cuộc

phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường ở nước ta. Tuy nhiên, do nhiều

nguyên nhân khác nhau như sức ép gia tăng dân số, du canh du cư, đốt nương làm

rẫy, khai thác rừng không kiểm soát, cháy rừng, chiến tranh,... nên diện tích và chất

lượng rừng nước ta bị suy giảm liên tục trong thời gian dài, đặc biệt trong giai đoạn

1980 - 1985 trung bình mỗi năm chúng ta mất đi khoảng 235.000 ha rừng.

Từ năm 1990 trở lại đây, diện tích và độ che phủ rừng đã tăng lên liên tục

nhờ công tác trồng rừng và phục hồi rừng tự nhiên, đặc biệt là chương trình 327

(phủ xanh đất trống đối núi trọc); Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng; Chỉ thị số

286/TTg ngày 02/5/1997 cấm khai thác rừng tự nhiên của Chính phủ,... cùng với sự

hỗ trợ của nhiều dự án quốc tế như PAM, KFW (Đức); JICA (Nhật Bản),.... Theo

thống kê đến 31/12/2012, diện tích rừng toàn quốc là 13.862.043 ha với tỷ lệ che

phủ của rừng đạt 40,7%.

Mặc dù, diện tích rừng tăng nhưng trữ lượng và chất lượng rừng chưa được

cải thiện rõ rệt, chủ yếu rừng tự nhiên hiện nay thuộc đối tượng rừng nghèo kiệt, giá

trị kinh tế, phòng hộ, đa dạng sinh học,... không cao. Rừng trồng sản xuất mới chỉ là

rừng trồng nguyên liệu, gỗ nhỏ. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc xây dựng

phương án quy hoạch phát triển lâm nghiệp hợp lý cho từng vùng, địa phương cụ

thể đang được các nhà quản lý rất quan tâm đặc biệt từ khi thực hiện việc rà soát

quy hoạch lại 3 loại rừng theo Chỉ thị 38/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã là vấn đề cần thiết, được tiến

hành theo từng giai đoạn nhằm phát huy vai trò chỉ đạo, tổ chức sản xuất lâm

nghiệp trên địa bàn xã. Những năm qua, một số địa phương trong cả nước đã thực

hiện công tác quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng song vẫn còn có những bất cập.

Việc đánh giá hiện trạng sử dụng đất đai, tài nguyên rừng và quy hoạch bảo vệ và

phát triển rừng cấp xã chưa được thực hiện kịp thời và toàn diện trên cơ sở nhìn

2

nhận cả 3 yếu tố kinh tế, xã hội, môi trường và sự thu hút được sự tham gia của

người dân và cộng đồng còn hạn chế. Ngoài ra, mục tiêu và nội dung của quy hoạch

thường chưa quan tâm một cách thoả đáng tới những lợi thế và thách thức cũng như

tiềm năng cung cấp các nguồn lực và nhu cầu lâm sản đầu ra của các hoạt động sản

xuất nên vai trò của phương án quy hoạch còn nhiều hạn chế. Hơn nữa, quá trình

đổi mới của nền kinh tế, phương thức quản lý sử dụng đối với các nguồn tài nguyên

trong đó có tài nguyên đất và rừng cũng có nhiều thay đổi.

Quảng Sơn là xã miền núi của huyện Đăk Glong, cách trung tâm huyện 55

km về phía Bắc với tổng diện tích tự nhiên là 45.176,3 ha, trong đó diện tích đất

quy hoạch cho Lâm nghiệp 37.985,78 ha, chiếm 84,08% tổng diện tích toàn xã.

Diện tích rừng của xã Quảng Sơn có nhiều kiểu loại khác nhau, có tính đa dạng sinh

học cao, giữ vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của xã nói

riêng và của huyện Đắk Glong nói chung, đồng thời đảm bảo năng lực phòng hộ

đầu nguồn, phòng hộ môi trường cảnh quan, điều hoà khí hậu, bảo vệ đất chống xói

mòn...

Sản xuất lâm nghiệp xã Quảng Sơn từng bước chuyển dịch theo hướng giảm

khai thác, tăng cường quản lý bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh và trồng rừng kinh tế,

khai thác các tiềm năng giá trị môi trường rừng. Hoạt động lâm nghiệp có nhiều đổi

mới về cơ chế tổ chức quản lý để nâng cao trách nhiệm quản lý của các đơn vị chủ

rừng. Công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng ngày càng được coi trọng đúng

mức hơn, góp phần tạo công ăn, việc làm, cải thiện đời sống và nâng cao ý thức bảo

vệ rừng của người dân địa phương, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ.

Tuy nhiên, hiện nay công tác lập quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng theo

Thông tư số 05/2008/TT-BNN ngày 14/01/2008 của Bộ Nông nghiệp & PTNT vẫn

chưa được triển khai thực hiện. Việc điều chỉnh lại địa giới hành chính theo Nghị

định 28/NĐ-CP ngày 06/7/2010 của Thủ tướng Chính Phủ đã làm thay đổi về quy

mô diện tích đất quy hoạch cho mục đích lâm nghiệp của xã Quảng Sơn. Tài

nguyên rừng của xã chưa phát huy hết tiềm năng, trong nhiều năm qua đời sống của

những người tham gia bảo vệ rừng và tái tạo rừng vẫn còn rất nghèo, thu nhập thấp

3

hơn rất nhiều so với các khu vực khác, do chưa được hưởng lợi thỏa đáng từ các giá

trị sử dụng của rừng. Chất lượng rừng tự nhiên chưa được nâng cao; Công nghệ

khai thác, chế biến gỗ chưa tiến triển kịp với các khu vực lân cận; Chưa tiếp cận

triệt để và có hiệu quả các cơ hội nguồn lợi đầu tư vào rừng thông qua các thành

phần kinh tế trong và ngoài nước...

Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải xây dựng phương án quy hoạch bảo vệ và

phát triển rừng xã Quảng Sơn cho phù hợp với tình hình thực tế, tiếp cận các quan

điểm mới trong quy hoạch nhằm góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống của

người dân, thực hiện xoá đói giảm nghèo và đưa kinh tế xã hội miền núi phát triển

hoà nhập với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn là hết sức cần thiết.

Xuất phát từ những yêu cầu trên, để xây dựng luận văn tốt nghiệp chúng tôi

thực hiện đề tài: “Nghiên cứu xây dựng phương án quy hoạch bảo vệ và phát

triển rừng tại xã Quảng Sơn huyện Đắk Glong tỉnh Đắk Nông, giai đoạn 2013 -

2020”.

4

Chương 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Nhận thức về quy hoạch

Thực chất của công tác quy hoạch nói chung là tổ chức không gian và thời

gian phát triển chung cho kinh tế - xã hội, môi trường hoặc một ngành, một lĩnh vực

sản xuất trong từng giai đoạn cụ thể. Mỗi ngành kinh tế muốn tồn tại, phát triển thì

nhất thiết phải tiến hành quy hoạch, sắp xếp một cách hợp lý, mà trong đó công tác

điều tra cơ bản phục vụ cho quy hoạch phát triển phải được đi trước một bước. Quy

hoạch bảo vệ và phát triển rừng là một bộ phận cấu thành của quy hoạch tổng thể

phát triển nông thôn và thuộc phạm trù của quy hoạch vùng.

1.1.1. Quy hoạch sử dụng đất đai

Quan niệm về QHSDĐĐ còn nhiều hướng khác nhau, tuy nhiên tựu chung

lại một số tác giả có nghiên cứu, như:

Theo Dent (1986) [28]: QHSDĐĐ như là phương tiện giúp cho lãnh đạo

quyết định sử dụng đất đai như thế nào thông qua việc đánh giá có hệ thống cho

việc chọn mẫu hình trong sử dụng đất đai, mà trong sự lựa chọn này sẽ đáp ứng với

những mục tiêu riêng biệt, và tự đó hình thành nên chính sách và chương trình cho

sử dụng đất đai.

Một định nghĩa khác của Fresco và ctv, (1993) [32], QHSDĐĐ như là dạng

hình của quy hoạch vùng, trực tiếp cho thấy việc sử dụng tốt nhất về đất đai trên

quan điểm chấp nhận những mục tiêu, và những cơ hội về môi trường, xã hội và

những vấn đề hạn chế khác.

Những từ vựng kết hợp với những định nghĩa về QHSDĐĐ là hầu hết đều

đồng ý chú trọng và giải đoán những hoạt động như là một tiến trình xây dựng

quyết định cấp cao. Do đó QHSDĐĐ, trong một thời gian dài với quyết định từ trên

xuống nên cho kết quả là nhà quy hoạch bảo người dân phải làm những gì. Trong

phương pháp tổng hợp và người sử dụng đất đai là trung tâm. [30] đã đổi lại định

nghĩa về QHSDĐĐ như sau QHSDĐĐ là một tiến trình xây dựng những quyết định

5

để đưa đến những hành động trong việc phân chia đất đai cho sử dụng để cung cấp

những cái có lợi bền vững nhất. Với cái nhìn về quan điểm khả năng bền vững thì

chức năng của QHSDĐĐ là hướng dẫn sự quyết định trong sử dụng đất đai để làm

sao trong nguồn tài nguyên đó được khai thác có lợi cho con người, nhưng đồng

thời cũng được bảo vệ cho tương lai.

Lê Quang Trí (2005) [22]: QHSDĐĐ là sự đánh giá tiềm năng đất nước có

hệ thống, tính thay đổi trong trong sử dụng đất đai và những điều kiện kinh tế xã hội

để chọn lọc và thực hiện các sự chọn lựa sử dụng đất đai tốt nhất. Đồng thời

QHSDĐĐ cũng là chọn lọc và đưa vào thực hành những sử dụng đất đai đó mà nó

phải phù hợp với yêu cầu cần thiết của con người về bảo vệ nguồn tài nguyên thiên

nhiên trong tương lai.

Do đó trong quy hoạch cho thấy: Những sự cần thiết phải thay đổi; Những

cần thiết cho việc cải thiện quản lý, hay những cần thiết cho kiểu sử dụng đất đai

hoàn toàn khác nhau trong các trường hợp cụ thể khác nhau.

Các loại sử dụng đất đai bao gồm: Đất ở, nông nghiệp (thuỷ sản, chăn nuôi

…) đồng cỏ, rừng, bảo vệ thiên nhiên và du lịch đều phải được phân chia một cách

cụ thể theo thời gian được quy định. Do đó trong QHSDĐĐ phải cung cấp những

hướng dẫn cụ thể để có thể giúp cho các nhà quyết định có thể chọn lựa trong các

trường hợp có sự mâu thuẫn giữa đất nông nghiệp và phát triển đo thị hay công

nghiệp hoá bằng cách chỉ ra các vùng đất đai nào có giá trị nhất cho đất nông

nghiệp và nông thôn mà không nên sử dụng cho các mục đích khác.

Quy hoạch sử dụng đất là một hệ thống các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và

pháp chế của Nhà nước về tổ chức sử dụng đất đầy đủ, hợp lý, có hiệu quả cao

thông qua việc phân phối và tái phân phối quỹ đất (cả nước hoặc trong phạm vi một

đơn vị, đối tượng sử dụng đất cụ thể), tổ chức sử dụng đất như một tư liệu sản xuất

cùng với các tư liệu sản xuất khác gắn liền với đất nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng

đất, hiệu quả sản xuất xã hội tạo điều kiện bảo vệ đất và bảo vệ môi trường [26]

6

1.1.2. Quy hoạch vùng lãnh thổ

Theo Nguyễn Nhật Tân - Nguyễn Thị Vòng (1995)[18] Quy hoạch vùng lãnh

thổ là hệ thống các biện pháp xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý gắn liền với cơ

cấu đất đai và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên, các công trình kinh tế -

văn hoá - xã hội, nguồn lao động, tăng cương xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển lực

lượng sản xuất để phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới và xã hội mới.

Quy hoạch vùng lãnh thổ là khoa học về quản lý tài nguyên mang cả 3 tính

chất: Kinh tế, kỹ thuật và pháp lý. Là cơ sở để lập dự án đầu tư phát triển kinh tế và

xây dựng nông thôn mới. Sự phát triển của khoa học quy hoạch vùng lãnh thổ liên

quan đến sự phát triển của các quản lý phát triển kinh tế và phân bổ lực lượng sản

xuất trên địa bàn lãnh thổ.

Đặc điểm của quy hoạch là quy hoạch thường mang tính định hướng về

tương lai, vì vậy quy hoạch phải có mục tiêu rõ rệt. Mục tiêu không thể hình thành

do ý nghĩ chủ quan của một số người làm quy hoạch, cũng không thể hình thành

chóng vánh trong ngày một ngày hai mà nó phải trải qua một quá trình tìm tòi, cân

nhắc lâu dài từ tổng quát đến chi tiết, từ cục bộ đến toàn diện. Mục tiêu phải có tính

khả thi, nếu quy hoạch không hướng về tương lai thì chỉ là một việc làm tốn kém,

một bức tranh không có lợi ích.

1.1.3. Quy hoạch phát triển lâm nghiệp

Lâm nghiệp là một ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù bao gồm tất cả các hoạt

động gắn liền với sản xuất hàng hoá và dịch vụ từ rừng như các hoạt động bảo vệ,

gây trồng, khai thác, vận chuyển, sản xuất, chế biến lâm sản và các dịch vụ môi

trường có liên quan đến rừng; đồng thời ngành lâm nghiệp có vai trò rất quan trọng

trong việc bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, xoá đói, giảm nghèo, đặc

biệt cho người dân miền núi, góp phần ổn định xã hội và an ninh quốc phòng.

Quy hoạch phát triển lâm nghiệp là một hoạt động vừa mang tính khoa học

vừa mang tính pháp lý của hệ thống các biện pháp kỹ thuật, kinh tế, xã hội. Thực

chất đó là quá trình ra quyết định sử dụng rừng và đất rừng như một tư liệu sản xuất

đặc biệt, nhằm mục tiêu sử dụng rừng và đất rừng một cách hiệu quả. Công tác quy

7

hoạch bảo vệ và phát triển lâm nghiệp luôn được trú trọng và coi là nhiệm vụ chiến

lược trong quản lý rừng và đất rừng.

Quy hoạch phát triển lâm nghiệp là một bộ phận cấu thành của quy hoạch

tổng thể phát triển nông thôn. Do đó công tác quy hoạch phát triển lâm nghiệp cần

có sự phối hợp chặt chẽ với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội nông thôn

nhằm tránh sự chồng chéo, hạn chế lẫn nhau giữa các ngành. Nếu công tác quy

hoạch phát triển lâm nghiệp được chú ý quan tâm đúng mức thì sự phát triển của

ngành lâm nghiệp sẽ mang lại tính bền vững, trong điều kiện ngược lại sẽ gặp

những trở ngại, khó khăn. Ngày nay khi nhu cầu của xã hội về lâm sản đáp ứng cho

nguyên liệu, gỗ, củi … ngày càng cao, tạo áp lực ngày càng lớn vào tài nguyên rừng

và đất rừng thì vấn đề quy hoạch bảo vệ và phát triển lâm nghiệp một cách bền

vững càng trở lên quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ hết, và đã trở thành một

nguyên tắc hàng đầu trong chiến lược phát triển lâm nghiệp của mỗi quốc gia nói

riêng và trên toàn thế giới nói chung.

Những nội dung chủ yếu thường được chú ý là các yếu tố về mặt kinh tế, bảo

vệ môi trường, bảo vệ các hệ sinh thái đa dạng sinh học và các đặc điểm xã hội,

nhân văn. Quá trình phát triển của việc quản lý sử dụng đất trên thế giới luôn gắn

liền với lịch sử phát triển xã hội loài người.

1.2. Trên thế giới

Chúng ta biết rằng việc quản lý sử dụng tài nguyên thiên nhiên theo hướng

bền vững nói chung và tài nguyên rừng nói riêng đã và đang được các nhà khoa học

trong nước và trên thế giới quan tâm.

Tuỳ theo cách nhìn nhận về quy hoạch phát triển lâm nghiệp sao cho hợp lý

được nhiều tác giả đề cập tới ở những mức độ rộng hẹp khác nhau. Việc đưa ra một

khái niệm thống nhất là một điều rất khó thực hiện, song phân tích qua các khái

niệm cho thấy có những điểm giống nhau, đó là dựa trên quan điểm về sự phát triển

bền vững thì các hoạt động có liên quan đến tài nguyên rừng phải được xem xét một

cách toàn diện và đồng thời đảm bảo sử dụng nó theo hướng lâu dài và bền vững.

8

Những nội dung chủ yếu thường được chú ý là các yếu tố về mặt kinh tế, bảo

vệ môi trường, bảo vệ tính đa dạng sinh học, các đặc điểm xã hội và nhân văn. Quá

trình phát triển của việc quản lý sử dụng tài nguyên rừng trên thế giới luôn gắn liền

với lịch sử phát triển của xã hội loài người. Quy hoạch phát triển lâm nghiệp luôn

phụ thuộc vào Quy hoạch vùng và Quy hoạch cảnh quan trong quá trình xây dựng

phương án quy hoạch.

1.2.1. Quy hoạch vùng

Quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp ở Liên Xô trước đây: Nguyễn Nhật

Tân - Nguyễn Thị Vòng (1995) [18]: Quy hoạch vùng nông nghiệp là một biện pháp

tổng hợp của Nhà nước về phân bố và phát triển lực lượng sản xuất trên lãnh thổ

các vùng hành chính - nông nghiệp nhằm đáp ứng các nhu cầu về phát triển tất cả

các ngành kinh tế quốc dân trong vùng. Quy hoạch vùng nông nghiệp là giai đoạn

kết thúc của kế hoạch hoá tương lai của Nhà nước một cách chi tiết sự phát triển và

phân bố lực lượng sản xuất theo lãnh thổ của vùng, là biện pháp xác định các xí

nghiệp chuyên môn hoá một cách hợp lý, là biện pháp thiết kế và đưa vào nề nếp

việc sử dụng đất đai trên từng khu vực cụ thể của vùng, là biện pháp xác định sự

phân bố đúng đắn các cơ quan y tế và phục vụ sinh hoạt văn hoá cho nhân dân, là

biện pháp xây dựng các tiền đề tổ chức lãnh thổ nhằm sử dụng hợp lý các của cải tự

nhiên, các thành tựu khoa học kỹ thuật, các nguồn lao động nhằm phát triển với tốc

độ nhanh kinh tế của tất cả các xí nghiệp đồng thời cải thiện đời sống vật chất và

văn hoá của nhân dân trong vùng lao động nông nghiệp đó.

Trần Hữu Viên (2005) [26]: Quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp tuân theo

học thuyết Mác - Lê Nin về phân bố và phát triển lực lượng sản xuất theo lãnh thổ

và sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng.

Các Mác và Ăng Ghen đã chỉ ra “Mức độ phát triển lực lượng sản xuất của

một dân tộc thể hiện rõ nét hơn hết ở sự phân công lao động của dân tộc đó được

phát triển đến mức độ nào”

Lê Nin đã chỉ ra “Sự nghiên cứu tổng hợp tất cả các đặc điểm tự nhiên kinh

tế xã hội của mỗi vùng là nguyên tắc quan trọng để phân bố sản xuất”. Vì vậy,

9

nghiên cứu các đặc điểm đặc trưng cho sự phân bố lực lượng sản xuất cho một vùng

trong quá khứ và hiện tại để xác định khả năng và tương lai phát triển của vùng đó.

Dựa trên cơ sở học thuyết của Mác và Ăng Ghen, V.I. Lê Nin đã nghiên cứu

các hướng cụ thể về kế hoạch hoá phát triển lực lượng sản xuất trong xã hội chủ

nghĩa.

Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Bungari trước đây: Nhằm sử dụng hiệu quả nhất

lãnh thổ của đất nước. Bố trí hợp lý các hoạt động của con người nhằm đảm bảo tái

sản xuất mở rộng. Xây dựng đồng bộ môi trường sống.

Quy hoạch lãnh thổ đất nước được phân thành các vùng: Lãnh thổ là môi

trường thiên nhiên phải bảo vệ; Lãnh thổ thiên nhiên không có nông thôn, sự tác

động của con người vào đây rất ít; Lãnh thổ là môi trường thiên nhiên có mạng lưới

nông thôn, có sự can thiệp vừa phải của con người, thuận lợi cho nghỉ mát; Lãnh

thổ là môi trường nông nghiệp không có mạng lưới nông thôn nhưng có tác động

đặc biệt của con người; Lãnh thổ là môi trường nông nghiệp có mạng lưới nông

thôn và có sự can thiệp vừa phải của con người, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp;

Lãnh thổ là môi trường công nghiệp với sự can thiệp tích cực của con người.

Trên cơ sở quy hoạch vùng lãnh thổ cả nước tiến hành quy hoạch lãnh thổ

vùng và quy hoạch lãnh thổ địa phương.

Quy hoạch vùng ở Pháp: Theo quan niệm chung của hệ thống các mô hình

quy hoạch vùng lãnh thổ M. Thénevin (M. Pierre Thénevin), một chuyên gia thống

kê đã giới thiệu một số mô hình quy hoạch vùng được áp dụng thành công ở miền

Tây nam nước Cộng hoà Côte D’ivoire. Trong mô hình quy hoạch vùng này, người

ta đã nghiên cứu hàm mục tiêu cực đại giá trị tăng thêm xã hội với các giàng buộc

trong nội vùng, có quan hệ với các vùng khác và với nước ngoài. Thực chất mô

hình là một bài toán quy hoạch tuyến tính có cấu trúc:

- Các hoạt động sản xuất:

+ Sản xuất nông nghiệp theo các phương thức trồng trọt gia đình và trồng

trọt công nghiệp với các mức thâm canh cao độ, thâm canh trung bình và cổ điển

(truyền thống).

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!