Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên Cứu Xây Dựng Cơ Sở Dữ Liệu Chi Trả Dịch Vụ Môi Trường Rừng Cho Nhà Máy Thủy Điện Tuyên Quang
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
ĐINH BỘ LĨNH
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG CƠ SỞ DỮ LIỆU
CHI TRẢ DỊCH VỤ MÔI TRƯỜNG RỪNG CHO NHÀ MÁY
THỦY ĐIỆN TUYÊN QUANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
HÀ NỘI - 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
ĐINH BỘ LĨNH
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG CƠ SỞ DỮ LIỆU
CHI TRẢ DỊCH VỤ MÔI TRƯỜNG RỪNG CHO NHÀ MÁY
THỦY ĐIỆN TUYÊN QUANG
Chuyên ngành: Quản lý bảo vệ tài nguyên rừng
Mã số: 60.62.68
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHÙNG VĂN KHOA
HÀ NỘI - 2011
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng có vai trò hết sức quan trọng đối với con người và đặc biệt là duy trì
môi trường sống, đóng góp vào sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia và sự
tồn tại của trái đất. Việt Nam có 13.258.843ha rừng (rừng tự nhiên:
10.339.305ha; rừng trồng: 2.919.538ha), ngoài việc cung cấp gỗ, củi và các lâm
sản khác, rừng có vai trò to lớn trong việc phòng hộ, duy trì môi trường sống
như điều hòa khí hậu, điều tiết nguồn nước, hạn chế xói mòn, rửa trôi và hạn chế
bão lụt, hấp thụ các bon, duy trì và bảo tồn đa dạng sinh học,... Các chức năng
này của rừng được hiểu là các "giá trị môi trường và dịch vụ môi trường rừng".
Trong nhiều năm qua, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong tổ
chức và hành động bảo vệ và phát triển rừng; ban hành hệ thống pháp luật,
nhiều chủ chương, chính sách và nguồn kinh phí lớn nhằm bảo vệ và phát triển
tài nguyên rừng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì tình trạng suy
thoái tài nguyên rừng, tài nguyên đa dạng sinh học trong thực tế đang diễn ra
chưa ngăn chặn được, lại đang có nguy cơ suy thoái nhiều hơn trong giai đoạn
tới khi chúng ta đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế, công nghiệp hóa và đô thị
hóa. Sự suy giảm về tài nguyên rừng, đặc biệt là sự thu hẹp nhanh chóng diện
tích rừng đã làm suy giảm đáng kể chức năng sinh thái của rừng trong việc bảo
vệ môi trường, phòng chống thiên tai và được coi là một trong những nguyên
nhân dẫn đến sự suy thoái môi trường và biến đổi khí hậu toàn cầu.
Những năm gần đây, hiện tượng ấm lên toàn cầu, sự gia tăng và xuất
hiện bất thường của những trận bão, lũ lụt có sức tàn phá lớn và suy thoái đất
đai và nguy cơ sa mạc hóa trên diện rộng là mối lo ngại lớn trên phạm vi toàn
cầu thì vai trò của rừng, đặc biệt là giá trị to lớn của dịch vụ môi trường do
rừng mang lại đã và đang được thừa nhận trên phương diện quốc tế và ở Việt
Nam và chúng phải được lượng hóa bằng tiền. Nhằm duy trì những giá trị
dịch vụ môi trường của rừng và đảm bảo sự công bằng cho người làm nghề
rừng, các cơ chế tài chính về "chi trả dịch vụ môi trường rừng" đang trở
thành một giải pháp hiệu quả ở nhiều quốc gia nhằm đảm bảo nguồn tài chính
bền vững cho quản lý bền vững tài nguyên rừng.
2
Việt Nam đã thực hiện chính sách thí điểm chi trả dịch vụ môi trường
rừng theo Quyết định số 380/QĐ-TTg ngày 10 tháng 04 năm 2008 của Thủ
tướng Chính phủ, và mới đây Chính phủ đã có Nghị định số 99/2010/NĐ-CP
ngày 24 tháng 9 năm 2010 về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng. Chính
sách chi trả dịch vụ môi trường rừng là công cụ kinh tế, sử dụng để những người
được hưởng lợi từ các dịch vụ môi trường rừng chi trả cho những người duy trì,
bảo vệ và phát triển các chức năng của hệ sinh thái đó; được xem là cơ chế nhằm
thúc đẩy việc tạo ra và sử dụng các dịch vụ môi trường rừng bằng cách kết nối
người cung cấp dịch vụ và người sử dụng dịch vụ môi trường rừng.
Tuyên Quang là tỉnh miền núi phía Bắc, có 445.848ha đất lâm nghiệp
(chiếm 76% diện tích tự nhiên) và diện tích rừng hiện có của tỉnh là
386.102ha (rừng tự nhiên: 273.793ha; rừng trồng: 112.310ha), đạt độ che
phủ 62,8%, là một trong những tỉnh có độ che phủ của rừng cao nhất trong
phạm vi cả nước. Nhiều năm qua những người trực tiếp tham gia bảo vệ và
phát triển rừng chỉ được hưởng một phần giá trị sử dụng trực tiếp của rừng
hoặc được hỗ trợ tiền bảo vệ rừng do nhà nước chi trả, còn giá trị về môi
trường của rừng thì chủ rừng chưa được chi trả. Họ hầu như không đủ nguồn
thu để tái tạo lại rừng và đáp ứng nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Chính phủ
ban hành chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng là bài toán thúc đẩy và
xã hội hoá công tác bảo vệ và phát triển rừng, từng bước cải thiện đời sống
của người làm nghề rừng, nâng cao nhận thức về bảo vệ và phát triển rừng,
bảo vệ môi trường. Do vậy, việc nghiên cứu, triển khai thực hiện chi trả dịch
vụ môi trường rừng là một yêu cầu bức thiết của tỉnh Tuyên Quang cũng như
các địa phương khác trên phạm vi cả nước.
Từ yêu cầu thực tiễn, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài "Nghiên cứu
xây dựng cơ sở dữ liệu chi trả dịch vụ môi trường rừng cho Nhà máy thủy
điện Tuyên Quang".
3
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới
Mặc dù "dịch vụ môi trường rừng" là một khái niệm mới, được đưa vào
tư duy và thực tiễn bảo tồn gần một thập kỷ trở lại đây, tuy nhiên, nó đã
nhanh chóng trở nên phổ biến ở một số nước. Sự phát triển của dịch vụ môi
trường rừng ngày càng được lan rộng và ở một số nước thì dịch vụ môi
trường rừng còn được thể chế hoá trong các văn bản pháp luật. Hiện nay, dịch
vụ môi trường rừng đã nổi lên như một giải pháp chính sách để khuyến khích,
chia sẻ các lợi ích trong cộng đồng và xã hội.
Trên thế giới chi trả dịch vụ môi trường rừng đã được chú ý thực hiện từ
những năm 90 của thế kỷ 20, đến nay đã được đề cập và thực thi ở nhiều nước,
nhiều khu vực trên thế giới [6]. Các nước phát triển ở Mỹ La Tinh đã sử dụng
các mô hình chi trả dịch vụ môi trường rừng sớm nhất và chính phủ một số nước
Châu Âu cũng đã quan tâm đầu tư và thực hiện nhiều chương trình, mô hình chi
trả dịch vụ môi trường rừng [23]. Cho đến nay, hàng trăm sáng kiến mới về dịch
vụ môi trường đã được xây dựng trên khắp toàn cầu, như:
- Úc: Đã luật hóa quyền phát thải carbon từ năm 1998, cho phép các
nhà đầu tư đăng ký quyền sở hữu hấp thụ carbon của rừng. Đang thực hiện
chiến lược bồi hoàn đa dạng sinh học và chương trình bảo tồn nhằm giảm
thiểu tác động của hoạt động mở rộng khai thác mỏ. Các ông ty khai thác
mỏ phải thực hiện bồi hoàn lại môi trường do hoạt động khai thác mỏ gây
ra bằng cách thiết lập những khu rừng mới [22].
- Chi-lê: Người dân Chi-lê đã đầu tư vào Khu Bảo tồn Tư nhân phục vụ
mục đích chính là bảo tồn và điểm nghỉ dưỡng có giá trị đa dạng sinh học cao.
Chi trả được thực hiện theo hình thức tự nguyện với mong muốn bổ sung
thêm cho nguồn ngân sách bảo tồn sinh cảnh xung yếu của chính phủ.
4
- Costa Rica: Luật Lâm nghiệp (được thông qua năm 1996) đã xây
dựng chương trình chi trả dịch vụ hệ sinh thái tại Costa Rica trong một nỗ lực
nhằm bảo vệ các khu rừng nhiệt đới của quốc gia. Bộ Môi trường được thành
lập để thực hiện chương trình quốc gia này và đã công nhận 4 loại dịch vụ hệ
sinh thái chính mà các khu rừng nhiệt đới của đất nước cung cấp [25]:
• Giảm phát thải khí nhà kính
• Phòng hộ đầu nguồn
• Bảo tồn đa dạng sinh học
• Bảo tồn vẻ đẹp cảnh quan.
Cả 4 dịch vụ này tạo ra một gói dịch vụ kết hợp phản ánh giá trị sinh thái
tổng hợp của một diện tích rừng, và Bộ Môi trường nhận được 10 USD/1ha/năm
từ bên mua (gồm các công ty thủy điện, công ty sản xuất bia). Bộ Môi trường sử
dụng nguồn thu này để thực hiện các hợp đồng có thời hạn 5 năm với các chủ
đất tư nhân để chi trả trọn gói cho các dịch vụ hệ sinh thái (nước, các-bon, đa
dạng sinh học và vẻ đẹp cảnh quan) được cung cấp từ nỗ lực bảo vệ rừng [6].
- Mexico: Chính phủ Mexico đã tài trợ cho một chương trình chi trả để
bảo vệ rừng đầu nguồn và cung cấp dịch vụ thủy văn. Chủ rừng ở bất cứ tiểu
bang nào cũng đều có thể nộp đơn xin tham gia chương trình miễn là họ đáp
ứng được các tiêu chí thực hiện. Ủy ban Lâm nghiệp Quốc gia đã ký hợp
đồng với chủ đất và hợp đồng có thể được ký lại hàng năm trong giai đoạn 5
năm [19]. Tiền chi trả lần đầu sẽ được thanh toán trong vòng 16 ngày làm
việc kể từ ngày ký hợp đồng và các lần chi trả sau sẽ được thanh toán vào
cuối năm dựa vào ảnh vệ tinh và kiểm tra ngẫu nhiên tại hiện trường.
Mức giá chi trả cho chủ đất do nhà nước quyết định trên cơ sở chi phí
theo loại hình sử dụng đất, giả sử thu nhập từ trồng ngô là một hoạt động thay
thế trên diện tích đất đó (mức giá từ 30 đến 36 USD/ha/năm) [6].