Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên cứu tổng hợp, cấu trúc và tính chất một số dẫn xuất của quinolin trên cơ sở eugenol từ tinh dầu hương nhu
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hóa học các hợp chất dị vòng là một lĩnh vực phát triển mạnh mẽ và đã tạo ra
nhiều hợp chất có ứng dụng trong thực tiễn. Trong lĩnh vực đó, dị vòng quinolin giữ
một vai trò quan trọng. Nhiều hợp chất chứa khung quinolin được sử dụng trong các
ngành công nghiệp khác nhau như mỹ phẩm, thực phẩm, chất xúc tác, thuốc
nhuộm,… và đặc biệt là trong ngành dược phẩm. Điển hình như quinine (I),
cinchonine (II), chloroquine (III), pamaquine (V),…(công thức ở mục 1.4) được sử
dụng làm thuốc trị sốt rét. Một số dẫn chất khác của quinolin được ứng dụng làm
thuốc chữa trị ung thư như camptothecin, kháng khuẩn, kháng nấm, chống lao phổi
như bedaquiline, ... [50],[54].
Đáng chú ý là các diarylquinolin hiện nay đang được xếp vào một trong
mười loại kháng sinh thế hệ mới thay thế cho các kháng sinh đã bị vi trùng kháng
lại [43]. Một số dẫn chất khác của quinolin được ứng dụng làm thuốc kháng sinh,
kháng khuẩn, kháng nấm, chống kí sinh trùng gây bệnh [43, 95], chống lao phổi
[43],[48],[90],[98],[126].
Không những vậy, các hợp chất loại quinolin còn có nhiều ứng dụng trong hóa
học phân tích: ferron (XV), snazoxs (XVI), brombenzthiazo (XVII) (công thức ở
mục 1.4) dùng làm chất chỉ thị trong phân tích một số kim loại bằng phương pháp
trắc quang [19],[39],[70],[85]. Nhiều phức chất với phối tử là hợp chất quinolin
nhiều nhóm thế có tính chất quang điện rất đáng được quan tâm trong chế tạo pin
mặt trời [78],[119].
Tổng hợp các hợp chất mới trên cơ sở các hợp chất thiên nhiên đã tạo ra
được nhiều dược phẩm, nông dược được sử dụng rộng rãi trong y học và nông
nghiệp. Trong thế giới hiện đại ngày nay, mỗi khi có những chứng bệnh mới lạ các
nhà khoa học vẫn thường tìm đến các hợp chất thiên nhiên hoặc dẫn xuất của chúng,
mỗi khi có những chủng vi trùng, vi khuẩn, sâu bệnh nhờn thuốc, kháng thuốc, các
nhà hóa học lại phải tổng hợp ra các hoạt chất mới.
2
Gần đây, nhóm tổng hợp hữu cơ – trường Đại học Sư phạm Hà Nội [44] đã
phát hiện một phản ứng mới lạ: tổng hợp vòng quinolin từ hợp chất quinon-axi điều
chế từ axit eugenoxyaxetic. Nó đã mở ra một hướng nghiên cứu tổng hợp các hợp
chất mới loại quinolin nhiều nhóm thế. Tuy nhiên, phản ứng này chưa ổn định, hiệu
suất còn thấp, cơ chế phản ứng chưa được làm sáng tỏ. Việc hoàn thiện phương
pháp tạo vòng quinolin mới và nghiên cứu chuyển hoá sản phẩm thu được thành các
hợp chất mới không những có ý nghĩa về mặt lý thuyết mà còn có triển vọng tìm
kiếm được những hợp chất có hoạt tính sinh học cao và những phối tử cho nghiên
cứu phức chất.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu tổng hợp, cấu trúc và
tính chất một số dẫn xuất của quinolin trên cơ sở eugenol từ tinh dầu hương nhu”.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
– Hoàn thiện phương pháp tổng hợp vòng quinolin từ hợp chất quinon-axi
điều chế từ eugenol có trong tinh dầu hương nhu.
– Tổng hợp một số hợp chất mới thuộc loại quinolin nhiều nhóm thế và
nghiên cứu tính chất của chúng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề sau:
– Hoàn thiện phương pháp và nghiên cứu cơ chế của phản ứng tổng hợp vòng
quinolin từ hợp chất quinon-axi điều chế từ eugenol có trong tinh dầu hương nhu.
– Tổng hợp một số hợp chất mới thuộc loại quinolin nhiều nhóm thế.
– Nghiên cứu mối liên quan giữa cấu trúc của các hợp chất tổng hợp với tính
chất phổ của chúng, đồng thời cung cấp những dữ liệu về phổ của các hợp chất chứa
vòng quinolin.
– Nghiên cứu khả năng phát huỳnh quang của một số dẫn chất.
– Thăm dò hoạt tính sinh học của một số hợp chất tổng hợp được.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Sự thành công của đề tài trong việc tổng hợp vòng quinoline từ dẫn xuất
đinitro trên cơ sở eugenol đã mở ra một phương pháp mới trong nghiên cứu tổng
hợp dị vòng quinolin.
3
Tổng hợp một số hợp chất mới góp phần phát triển nghiên cứu khoa học cơ
bản. Nhờ qui kết chuẩn xác các tín hiệu trên phổ cộng hưởng từ hạt nhân (NMR) của
các hợp chất tổng hợp được, từ đó rút ra những số liệu đóng góp vào ngân hàng dữ
liệu cộng hưởng từ hạt nhân những giá trị và J đối với một số cấu trúc phức tạp sẽ là
nguồn dữ liệu quan trọng phục vụ cho nghiên cứu khoa học và giảng dạy hoá học.
Thử hoạt tính sinh học, khả năng kháng vi sinh vật, kháng kí sinh trùng sốt
rét của một số dẫn chất tổng hợp được nhằm tìm kiếm những chất có khả năng ứng
dụng vào thực tiễn.
4
Chương 1. TỔNG QUAN
1.1. TÌNH HÌNH TỔNG HỢP CÁC HỢP CHẤT DỊ VÒNG TỪ EUGENOL
1.1.1. Tinh dầu hương nhu và eugenol
Nguyên liệu đầu tiên mà chúng tôi sử dụng làm cơ sở để tạo vòng quinolin là
eugenol, thành phần chính của tinh dầu hương nhu. Vì vậy, ở mục này, chúng tôi
trình bày sơ lược về tinh dầu hương nhu và eugenol.
Cây hương nhu được biết đến như một loại cây thuốc quý, nó được sử dụng
trong các bài thuốc dân gian như thuốc trị bệnh cảm cúm, sốt, nhức đầu, hôi miệng,
đau bụng, miệng nôn, …[3]. Chưng cất lôi cuốn hơi nước thân, lá và hoa hương nhu
(phần trên mặt đất) người ta thu được tinh dầu hương nhu, một loại tinh dầu quan
trọng trong ngành công nghiệp hương liệu, mỹ phẩm và dược phẩm. Ở Việt Nam,
cây hương nhu mọc hoang hoặc được trồng khắp cả nước đặc biệt là những nơi có
độ ẩm cao. Do vậy, nguồn tinh dầu luôn sẵn có và được đảm bảo ổn định. Từ tinh
dầu hương nhu, người ta đã tách được eugenol (chiếm khoảng 40-70% khối lượng
tinh dầu [3]) để sử dụng trong công nghệ hương liệu và dược liệu.
Eugenol được gọi bằng nhiều tên khác nhau:
4-allyl-2-metoxyphenol
2-metoxy-4-(2-propenyl)phenol
1-allyl-4-hydroxy-3-metoxybenzen
2-metoxy-4-allylphenol
2-metoxy-4-(2-propen-1-yl)phenol
CTPT: C10H12O2
M = 164 g/mol
d = 1.06 g/cm3
t
0
nc = -7.50C
t
0
sôi = 2540C
pKa = 10.19
Eugenol được sử dụng để sản xuất O-metyleugenol, isoeugenol, vanilin, và
nhiều ứng dụng trong y học do eugenol có nguồn gốc thực vật, có hoạt tính sinh học
cao lại hầu như không độc với cơ thể [3],[24],[65],[66],[103],[104]. Ngay từ những
năm 1890, hỗn hợp eugenol + ZnO đã được nghiên cứu và sử dụng trong nha khoa
như là một loại “xi măng” dùng để trám răng [17],[51].
Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng tỏ rằng eugenol là hợp phần hoạt động
sinh học chính trong tác dụng chữa trị của tinh dầu hương nhu cũng như của cây
hương nhu. Để giải thích khả năng chữa trị các chứng bệnh khác nhau nhằm làm cơ
5
sở cho ứng dụng trong y học hiện đại, đã có một số công trình nghiên cứu dược lý
của eugenol và tinh dầu hương nhu đối với hệ miễn dịch, hệ thần kinh, hệ hô hấp, cơ
quan sinh sản, hoá sinh máu ở động vật thí nghiệm. Kết quả cho thấy eugenol có tác
dụng diệt vi khuẩn, diệt nấm, làm giảm đường huyết, giảm triglyxerit, giảm
cholesterol trong máu, làm giãn mạch máu [65],[66],[93],[103],[104],[105],[127].
Eugenol, một loại metoxyphenol, còn được sử dụng làm chất chống oxi hoá
quan trọng. Ngoài ra, eugenol còn được nghiên cứu về khả năng kháng khuẩn, chống
viêm và đặc biệt là khả năng ngăn cản sự phát triển của tế bào ung thư [23],[46],[50].
Ở một hướng nghiên cứu khác, E. Chaieb và cộng sự [31] đã phát hiện ra
eugenol có khả năng ức chế ăn mòn kim loại ở mức 91% tại nồng độ 0,173 g/l và
khả năng này tăng lên khi nhiệt độ tăng.
1.1.2. Chuyển hoá eugenol thành các chất đầu để tổng hợp các dị vòng
Eugenol thuộc loại phenol nên kém bền với những tác nhân khép vòng có
tính oxi hoá. Nhóm tổng hợp hữu cơ – ĐHSP Hà Nội [10] đã chuyển hoá nó thành
các dẫn xuất bền hơn (sơ đồ 1.1) để thực hiện các bước tổng hợp dị vòng tiếp theo.
Tinh dầu hương nhu được sử dụng trực tiếp để điều chế metyleugenol (1) và axit
eugenoxyaxetic (2) mà không không qua giai đoạn tách biệt eugenol từ tinh dầu.
Sơ đồ 1.1. Tổng hợp một số dẫn xuất ete của eugenol
Carrasco và cộng sự [30] cũng đã chuyển hoá eugenol thành một số dẫn xuất
este và nitro đơn giản (sơ đồ 1.2) đồng thời nghiên cứu khả năng ngăn cản sự phát
triển tế bào ung thư của các chất tổng hợp được. Kết quả cho thấy, các chất đều có
khả năng ức chế sự phát triển tế bào ung thư với IC50 < 50.10-6 mol/lít (chất chuẩn
IC50 = 9,28.10-6 mol/lít).
6
Sơ đồ 1.2. Tổng hợp một số dẫn xuất este và nitro của eugenol
J. Li và cộng sự [77] lại điều chế este của eugenol với aspirin (AEE) (sơ đồ
1.3) và nghiên cứu hoạt tính sinh học của AEE trên chuột. Kết quả cho thấy độc tính
của AEE thấp hơn 50 lần so với aspirin và 3,7 lần so với eugenol; khả năng giảm đau,
chống viêm thì tương đương với aspirin và eugenol nhưng hiệu quả kéo dài hơn.
Sơ đồ 1.3. Tổng hợp este của eugenol với aspirin
1.1.3. Nghiên cứu các hợp chất dị vòng tổng hợp từ eugenol và dẫn xuất
Sơ đồ 1.4. Tổng hợp dãy 1,3,4-oxadiazole từ axit veratric
Sơ đồ 1.5. Tổng hợp dãy 1,3,4-oxadiazole từ axit eugenoxyaxetic (R: CH2, CHMe)
7
Từ metyleugenol, bằng cách oxi hoá thành axit veratric (4) rồi chuyển hoá
theo sơ đồ 1.4, Nhóm tổng hợp Hữu cơ – ĐHSP Hà Nội đã tổng hợp dãy 2-aryl-1,3,4-
oxadiazole-5-thiol và dãy 2,5-diaryl-1,3,4-oxađiazole [2]. Hoặc từ axit
eugenoxyaxetic (2), theo sơ đồ 1.5, đã tổng hợp được một số oxadiazole (32)-(36) [2].
Cũng từ axit eugenoxyaxetic, nhóm tổng hợp Hữu cơ – ĐHSP Hà Nội [2] đã
tổng hợp một số các dị vòng 1,2,4-triazole qua hydrazit của axit eugenoxyaxetic
theo sơ đồ 1.6. Các hợp chất (40) và (41) ức chế một phần vi khuẩn, hợp chất (38)
ức chế hoàn toàn sự phát triển của S.typhi và B.cereus khi thử theo phương pháp
khuếch tán trong thạch ở nồng độ 500μg/ml.
Sơ đồ 1.6. Tổng hợp dãy 1,2,4-triazole từ hydrazit của axit eugenoxyaxetic (R: CH2, CHMe)
Từ axit eugenoxyaxetic nhóm tác giả [44] đã thực hiện được sự đóng vòng
quinolin theo (sơ đồ 1.7) thu được 7-cacboxymetoxy-6-hydroxy-3-sunfoquinolin
(44). Đây là một cách tạo vòng quinolin hoàn toàn mới chưa có tiền lệ, thêm nữa
hợp chất (44) là hợp chất mới chưa gặp trong các tài liệu từ trước tới nay.
Sơ đồ 1.7. Tổng hợp 7-cacboxymetoxy-6-hydroxy-3-sunfoquinolin từ eugenol
Kết quả này đã mở ra hướng tổng hợp các dẫn xuất nhiều nhóm thế của
quinolin mà bằng các phản ứng thông thường khác không thể gắn vào vòng quinolin
được. Đây là vấn đề nghiên cứu không chỉ có ý nghĩa về lý thuyết mà còn có ý
nghĩa thực tiễn. Tuy nhiên, phản ứng này còn nhiều điểm chưa được sáng tỏ, vì vậy
cần được nghiên cứu chi tiết hơn.
8
1.2. SƠ LƯỢC VỀ DỊ VÒNG QUINOLIN
1.2.1. Quinolin [4],[8]
Quinolin được phát hiện từ sản phẩm chưng cất nhựa than đá, mà hiện nay,
đây vẫn là nguồn sản xuất quinolin thương mại. Quinolin được gọi với nhiều tên
khác nhau:
Benzo[b]azin
Benzo[b]azabenzen
Benzo[b]pyridin
1-azanaphtalen
t
0
sôi = 2370C
d = 1,093 g/ml
pKa = 4,94;…
Quinolin ít tan trong nước lạnh nhưng hòa tan dễ dàng trong nước nóng, dung
dịch axit loãng và hầu hết các dung môi hữu cơ như etanol, ete, cloroform, benzen,
.... Quinolin còn là một dung môi có khả năng hoà tan nhiều chất hữu cơ.
Các dẫn xuất của quinolin cũng được tìm thấy trong tự nhiên, chúng đều có
hoạt tính sinh học mạnh và được sử dụng làm thuốc chữa bệnh như quinine (ký
ninh, thuốc chống sốt rét), camptothecin (ankaloid có tác dụng trị ung thư),
streptonigrin (một loại quinolon được dùng làm thuốc thuốc kháng sinh), …
Quinolin được sử dụng sản xuất vitamin PP; thuốc nhuộm và 8-
hydroxyquinolin để sử dụng làm phối tử trong hoá phân tích.
Phổ hồng ngoại (IR)
Vân ở 3080 cm-1
, mạnh, C–H vòng thơm; Vân ở 1500 cm-1
, mạnh C=C, C=N
vòng thơm; Vân ở 1100 cm-1
, trung bình, C–C.
Phổ khối lượng (MS) [1],[4],[8]
Phổ khối lượng của quinolin ghi theo phương pháp EI-MS thường cho pic ion
phân tử có cuờng độ lớn. Đặc trưng cho sự phân mảnh của các hợp chất chứa vòng
quinolin đó là sự mất đi một phân tử HCN:
Phổ cộng hưởng từ hạt nhân (NMR)
Các tín hiệu
1H và
13C NMR của quinolin được liệt kê ở bảng sau đây:
9
Vị trí
Proton Cacbon
(ppm) J (Hz) (ppm)
2 8,81 7,5/ 1,5 150,3
3 7,26 7,5/ 7,5 121,0
4 8,00 7,5/ 1,5/ 1,5 135,9
5 7,68 7,5/ 1,5/ 1,5 127,7
6 7,43 7,5/ 7,5/ 1,5 126,5
7 7,61 7,5/ 7,5/ 1,5 129,4
8 8,05 7,5/ 1,5 127,7
9 - - 148,4
10 - - 128,2
Tính bazơ
Giống với pyridin và isoquinolin, nguyên tử N của vòng quinolin đóng vai trò là
một bazơ (pKa = 4,94) có độ mạnh gần với pyridin (pKa = 5,23). Quinolin phản ứng
được với các axit mạnh, ankyl halogenua, axyl halogenua, axit Lewis và một số muối
kim loại. Sản phẩm của các phản ứng này là muối amioni bậc bốn của quinolin, thí dụ:
1.2.2. Phản ứng thế electrophin vào vòng quinolin
Các phản ứng của quinolin có những điểm tương đồng với benzen, naphtalen
và pyridin. Do khả năng phản ứng thế electronphin của pyridin kém hơn nhiều so
với benzen, vì vậy, các phản ứng thế electrophin của quinolin xảy ra ưu tiên vào
vòng benzen ngưng tụ, thường là C5 và C8 tương tự như vị trí của naphtalen.
Phản ứng nitro hoá
Sử dụng tác nhân nitro hoá là hỗn hợp HNO3/ H2SO4 đặc ở 0
0C, từ quinolin
thu được hỗn hợp hai đồng phân 5-nitro và 8-nitroquinolin. Trong điều kiện môi
trường axit như thế thì ion quinolini đã bị nitro hoá [4],[8].
N
CH3I
N
CH3
+
I
-
10
Nhưng khi sử dụng N2O4 trong môi trường Ac2O sẽ thu được dẫn xuất 3-
nitroquinolin với hiệu suất thấp [4],[8].
Phản ứng sunfo hoá [4],[8]
Tùy theo điều kiện thực nghiệm, phản ứng sunfo hóa quinolin cho những sản
phẩm khác nhau, song đều là những dẫn xuất sunfonic ở phía vòng benzen.
Oleum 30% ở 90 0C sunfo hóa quinolin ở vị trí số 8, ở 170 0C có mặt HgSO4
lại cho axit quinolin-5-sunfonic:
Đáng chú ý là nếu sunfo hóa quinolin ở nhiệt độ cao (~3000C) hoặc đun nóng
các axit 5- và 8-sunfonic với axit sunfuric sẽ sinh ra axit quinolin-6-sunfonic bền về
nhiệt động học:
Phản ứng halogen hóa [4],[8]
Phản ứng halogen hóa quinolin diễn ra khá phức tạp vì tùy theo điều kiện
thực hiện mà cơ chế phản ứng có thể khác nhau, do đó tạo thành các sản phẩm thế
khác nhau. Quinolin tác dụng với brom/ bạc sunfat trong dung dịch axit sunfuric
cho 5-bromo và 8-bromoquinolin với tỉ lệ mol gần bằng nhau và đạt hiệu suất cao.
11
Clo, iod cũng tương tự như brom. Nếu brom hóa quinolin có mặt AlCl3, phản
ứng chỉ xảy ra ở vị trí số 5. Điều này được giải thích bằng sự tạo thành phức giữa
AlCl3 và =N- cản trở sự brom hóa ở vị trí số 8.
Phản ứng clo hóa ở vị trí C3 của quinolin theo cơ chế cộng-tách chỉ xảy ra ở
nhiệt độ dưới 1000C và cho hiệu suất thấp.
1.2.3. Phản ứng thế nucleophin ở vòng quinolin
Kém phong phú hơn so với phản ứng thế electrophin, phản ứng thế nucleophin
ở quinolin ít được đề cập đến trong các tài liệu. Vòng pyridin ở phân tử quinolin có
mật độ electron thấp hơn vòng benzen ngưng tụ và thấp hơn benzen, chính vì thế
quinolin cũng tham gia phản ứng thế nucleophin giống với pyridin.
a. Phản ứng thay thế nguyên tử H ở vòng quinolin [4],[8]
Phản ứng thay thế nguyên tử H ở vòng quinolin đã được biết đến từ lâu. Tiêu
biểu nhất là amin hoá (phản ứng Chichibabin) xảy ra theo cơ chế SNAr.
Ở 2250C quinolin phản ứng với KOH nóng chảy rạo thành sản phẩm 2-
hydroxyquinolin, có dạng đồng phân tautome là 2-quinolon
Quinolin phản ứng với dẫn xuất cơ-kim (cơ magie hoặc cơ liti) sau giai đoạn
thuỷ phân và oxi hoá nhẹ tạo thành dẫn xuất 2-ankylquinolin
12
b. Phản ứng thay thế nguyên tử halogen ở vòng quinolin
Nguyên tử halogen gắn với vòng quinolin, tương tự như gắn với vòng
benzen, cũng có thể bị thế bằng tác nhân nucleophin. Hàng loạt phản ứng loại này
đã được đề cập đến trong các tài liệu như [15],[40],[47],[61],[81],[122]. Dưới đây
nêu một số kết quả mới về phản ứng thế nguyên tử halogen ở vòng quinolin.
N.Garg và cộng sự [55] trong một nghiên cứu mới đây đã thế nguyên tử clo
của dẫn xuất 2-cloroquinolin bằng hydrazin và sau đó chuyển hoá thành một dãy
các hydrazon. Các hydrazon tổng hợp được có khả năng chống co giật, hoạt tính của
một số chất gần tương đương với chất chuẩn.
Sumesh Eswaran và cộng sự [48] đã sử dụng phản ứng thế clo ở dẫn xuất 4-
cloroquinolin để tổng hợp một số hợp chất dạng 4-aminoquinolin và nghiên cứu khả
năng kháng lao của các dẫn chất tổng hợp được. Các hợp chất đều có hoạt tính, tuy
nhiên không cao và chưa thể đưa vào sử dụng được.
Paola Corona và cộng sự [35] còn cho thấy, ngoài hai vị trí 2 và 4, khi trên
vòng quinolin có nhóm thế hút electron mạnh, nguyên tử halogen ở vị trí 7 có thể
tham dự phản ứng thế nucleophin thuận lợi hơn ở vị trí khác.
Trong một nghiên cứu khác, E. Ibrahim Aly [15] và A. Kumar cùng cộng sự
[70] cho thấy, nguyên tử clo ở vị trí 4 dễ dàng bị thế bởi amin hơn ở vị trí 7.
13
P. Pitchai và cộng sự [109] trong nghiên cứu của mình cũng đã chứng minh
nguyên tử clo ở vị trí 4 dễ bị thế nucleophin hơn nguyên tử iod ở vị trí số 3
Một vài tác nhân nucleophin mạnh khi có xúc tác thích hợp có thể thay thế
tất cả các nguyên tử halogen ở các vị trí khác nhau của vòng quinolin. Điều này
được chứng minh trong công trình [121] của Ayse Sahin và cộng sự.
Trong một nghiên cứu mới đây, Otto van den Berg và cộng sự [22] cho thấy,
dẫn xuất 7-fluoroquinolini có thể bị thế bởi các tác nhân nucleophin mạnh như
amin, thiol, … cho hiệu suất cao.
Như vậy có thể thấy rằng, nguyên tử H ở vị trí 2 và 4 của quinolin (khác với
các nguyên tử H ở vòng benzen) có thể tham gia phản ứng thế nucleophin; nguyên
tử halogen ở các vị trí khác nhau của vòng quinolin cũng tham gia phản ứng thế
nucleophin nhưng dễ nhất là vị trí 2 và 4; chưa có tài liệu nào công bố về việc thế
nucleophin nhóm OR ở vòng quinolin.
14
1.3. CÁC PHƯƠNG PHÁP TỔNG HỢP VÒNG QUINOLIN
Phương pháp chính thức tổng hợp vòng quinolin lần đầu tiên được Skraup mô
tả hơn một thế kỷ trước (năm 1880). Đó là phản ứng của anilin với acrolein, được
sinh ra từ glixerol trong hỗn hợp phản ứng dưới tác dụng axit H2SO4 đặc. Ngoài ra,
một số tổng hợp khác đã được các nhà khoa học tìm ra và đã trở thành phương pháp
phổ biến cho tổng hợp vòng quinolin. Trong đó phải kể đến phản ứng Döebner-Miller
sử dụng arylamin và các hợp chất cacbonyl α,β- không no, tổng hợp Combes sử dụng
amin thơm và β-dixeton, tổng hợp Conrad-Limpach sử dụng arylamin và β-xetoeste,
phản ứng Friedländer xảy ra giữa 2-aminobenzandehit và axetandehit, …
Chung quy lại có hai hướng tổng hợp sau: hướng thứ nhất sử dụng chất đầu
là các arylamin hoặc dẫn xuất N–thế của chúng trong khi đó hướng thứ hai lại sử
dụng các dẫn xuất của o-axylanilin và các dẫn xuất, mỗi hướng lại được chia thành
ba kiểu khác nhau (sơ đồ 1.8).
Sơ đồ 1.8. Sơ đồ chung tổng hợp vòng quinolin theo hai hướng
Mặc dù các phương pháp tổng hợp truyền thống có được sự phát triển mạnh
mẽ, tổng hợp được số lượng lớn các dẫn xuất mới của quinolin; dù rất khác nhau về
sử dụng các chất đầu hay cách tiến hành, nhưng chúng cũng đều còn có một số tồn
tại cần được cải tiến như điều kiện phản ứng khắc nghiệt, phản ứng xảy ra qua nhiều
giai đoạn tạo thành hỗn hợp các chất gây khó khăn cho việc tách và tinh chế sản
phẩm, cần có chất xúc tác, chất oxi hoá và nhiều chất phụ gia khác,...