Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên cứu thành phần loài và vai trò chỉ thị môi trường của côn trùng nước (bộ phù du, bộ cánh úp, bộ cánh lông) ở vùng hải vân, thành phố đà nẵng
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
BÙI HỮU BÌNH
NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN LOÀI VÀ VAI TRÒ CHỈ THỊ
MÔI TRƯỜNG CỦA CÔN TRÙNG NƯỚC (BỘ PHÙ DU,
BỘ CÁNH ÚP, BỘ CÁNH LÔNG) Ở VÙNG HẢI VÂN,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành : Sinh thái học
Mã số: 8420120
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨNH THÁI HỌC
Đà Nẵng - 2018
Công trình được hoàn thành tại
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Đình Trung
Phản biện 1: PGS. TS. Lê Trọng Sơn
Phản biện 2: TS. Vũ Thị Phương Anh
Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn
tốt nghiệp thạc sĩ Sinh thái học, họp tại Đại học Đà Nẵng
vào ngày 25 tháng 03 năm 2018
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng
Thư viện trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Côn trùng ở nước giữ vai trò quan trọng trong hệ sinh thái
nước ngọt. Chúng có mặt hầu hết trong các thủy vực nội địa, đặc biệt
rất phổ biến ở các hệ thống khe, suối, sông thuộc vùng trung du, núi
cao. Hầu hết côn trùng có giai đoạn ấu trùng sống bắt buộc trong môi
trường nước, còn giai đoạn trưởng thành sống trên cạn. Một số loài,
con trưởng thành có thời gian sống trên cạn khá ngắn, thậm chí chỉ
trong một vài giờ để giao phối, đẻ trứng nhằm duy trì nòi giống, còn
pha ấu trùng kéo dài trong nước có thể hàng tháng hoặc tới hàng năm.
Côn trùng nước hiện là đối tượng được nghiên cứu sâu rộng trên Thế
giới, đặc biệt về sự đa dạng sinh học, vai trò làm sinh vật chỉ thị đánh
giá chất lượng môi trường nước, về sự ô nhiễm môi trường cũng như
phục hồi các hệ sinh thái.
Vùng rừng Hải Vân được biết đến là vùng ranh giới địa sinh
vật giữa Bắc và Nam Việt Nam, chứa đựng nhiều kiểu sinh cảnh
khác nhau, từ đầm phá ven biển đến rừng núi cao hiểm trở. Các suối
ở phía Bắc chảy theo hướng Bắc đổ vào đầm phá vùng bờ biển phía
Nam của tỉnh Thừa Thiên Huế. Các suối ở phía Nam chảy về phía
Nam của đèo Hải Vân thuộc TP Đà Nẵng. Do đó, Hải Vân đã tạo
thành một đơn vị địa lý sinh học đặc biệt nằm ở miền Trung Trung Bộ.
Đặc biệt, mạng lưới các khe, suối dày đặc phân bố theo nhiều kiểu địa
hình khác nhau ở vùng Bạch Mã, Hải Vân tạo điều kiện cho một số ít
loài côn trùng thích nghi phân bố ở vùng này. Cho đến nay, việc
nghiên cứu thành phần loài côn trùng ở nước thuộc các thủy vực
vùng Hải Vân, thành phố Đà Nẵng chưa được điều tra nghiên cứu.
Chính vì vậy, đặt vấn đề nghiên cứu về côn trùng nước ở vùng Hải
2
Vân thuộc địa phận thành phố Đà Nẵng là rất cần thiết, nhằm góp
phần cung cấp những dẫn liệu bước đầu về tính đa dạng về thành
phần loài, đặc điểm phân bố và vai trò chỉ thị môi trường nước của
chúng tại vùng này.
Căn cứ trên cơ sở khoa học và tính cấp thiết của vấn đề,
chúng tôi chọn lựa đề tài: “Nghiên cứu thành phần loài và vai trò
chỉ thị môi trường của côn trùng nước (bộ Phù du, bộ Cánh úp, bộ
Cánh lông) ở vùng Hải Vân, thành phố Đà Nẵng”
2. Mục đích của đề tài
- Thiết lập thành phần loài côn trùng nước ở vùng Hải Vân, TP Đà
Nẵng.
- Xác định được đặc điểm phân bố côn trùng nước ở vùng Hải Vân,
TP Đà Nẵng
- Đánh giá được vai trò chỉ thị môi trường nước của các họ thuộc ba
bộ côn trùng ở nước vùng Hải Vân, TP Đà Nẵng.
- Đưa ra các nhóm giải pháp nhằm bảo vệ các loài đặc hữu, quý hiếm.
3. Tính mới của đề tài
Cho đến nay chưa có nghiên cứu nào về thành phần loài côn
trùng nước ở vùng Hải Vân, TP Đà Nẵng. Kết quả của đề tài sẽ cung
cấp dẫn liệu về thành phần loài và đặc điểm phân bố côn trùng nước ở
vùng Hải Vân, TP Đà Nẵng, góp phần quan trọng vào công tác quản lí
bền vững tài nguyên đa dạng sinh học.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
4.1. Ý nghĩa về mặt lí luận
- Đánh giá được tính đa dạng về thành phần loài côn trùng
nước (bộ Phù du -Ephemeroptera, bộ Cánh úp - Plecoptera, bộ Cánh
lông - Trichoptera) ở vùng Hải Vân, thành phố Đà Nẵng.
3
- Có được hệ thống đánh giá sinh học bền vững, thân thiện với
môi trường thông qua việc sử dụng các loài côn trùng ở nước và chỉ số
sinh học EPT để quan trắc những biến động chất lượng nước vùng Hải
Vân, góp phần đa dạng hóa các chỉ số sinh học phục vụ quan trắc chất
lượng nước mặt trên phạm vi toàn quốc.
- Đánh giá được đặc điểm phân bố thành phần loài côn trùng
nước ở vùng Hải Vân, TP Đà Nẵng.
4.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
- Kết quả của đề tài luận văn là những dẫn liệu sinh học quan
trọng đối với công tác nghiên cứu, bảo tồn giá trị đa dạng sinh học
vùng Hải Vân, làm cơ sở cho việc quản lý tổng hợp nguồn tài nguyên
sinh học của vùng.
- Kết quả quan trắc chất lượng nước các điểm nghiên cứu
thông qua chỉ thị sinh học EPT sẽ có ý nghĩa thực tiễn, phục vụ hoạt
động du lịch, tại vùng Hải Vân, TP Đà Nẵng.
Luận văn được trình bày theo cơ cấu ngoài chương mở đầu
nêu lên tính cấp thiết mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi
nghiên cứu cũng như những ý nghĩa về lý luận và thực tiễn của đề
tài, phần kết luận thì phần nội dung chính được thể hiện trong các
phần sau:
Mở đầu
Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu côn trùng nước
Chương 2: Đối tượng, địa điểm, thời gian và phương pháp
nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu
Kết luận và kiến nghị
4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÔN TRÙNG NƯỚC
1. Trên thế giới
1.1. Nghiên cứu về đa dạng loài
Côn trùng nước đã được quan tâm nghiên cứu từ rất lâu ở
những nước phát triển. Các nhà khảo cổ đã phát hiện và mô tả những
hình ảnh về côn trùng từ những bức ảnh phác họa lâu đời nhất trong
hang động và các dấu tích chôn lấp. Sự quan sát này còn được tìm
thấy trong những tác phẩm nổi tiếng của các học giả từ rất sớm, thậm
chí trước thời Aristoteles khoảng 1000 năm. Đặc biệt, các loài côn
trùng ở nước truyền bệnh nghiêm trọng cho loài người (muỗi, ruồi)
thì sự quan tâm nghiên cứu côn trùng ngày càng được đẩy mạnh.
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến từng bộ
của nhóm côn trùng ở nước, từ những nghiên cứu về phân loại học
(McCafferty, 1991) đến những nghiên cứu về ứng dụng (Morse,
1997). Nhiều nhóm côn trùng ở nước gắn bó chặt chẽ với đời sống
con người như ruồi, muỗi... Chúng là tác nhân gây bệnh hoặc tác
nhân truyền bệnh cho người và động vật. Vì vậy mà từ rất sớm,
nhiều nhà khoa học đã quan tâm nghiên cứu đến các loài côn trùng
này như: Merritt và Cummins, 1996.
Đến cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, nhiều nhà khoa học đã
công bố hàng loạt các công trình nghiên cứu về côn trùng ở nước
như: McCafferty W.P. (1999), Morse, Yang Lianfang & Tian Lixin
(1994), Merritt R.W. & Cummins K.W. (1996),... Các nghiên cứu
này đã đưa ra khóa định loại tới giống, thậm chỉ tới loài côn trùng
nước dựa vào hình thái con trưởng thành và ấu trùng. Bên cạnh đó
5
các tác giả còn đề cập đến một số ứng dụng của chúng trong sinh thái
học.
1.2. Nghiên cứu về vai trò chỉ thị sinh học của côn trùng ở nước
Năm 1993, Resh đưa ra chỉ số EPT (độ phong phú của các bộ
Ephemeroptera, Plecoptera và Trichoptera trong quần xã). Chỉ số
này được sử dụng khá rộng rãi vì đây là những nhóm nhạy cảm với
sự ô nhiễm và dễ dàng định loại hơn những nhóm côn trùng khác. Hệ
thống này sử dụng số liệu ở mức độ họ, mỗi họ được quy cho một
điểm số phù hợp với tính nhạy cảm của nó với sự ô nhiễm hữu cơ.
Những điểm số riêng của mỗi họ được cộng lại để cho điểm chống
chịu tổng của mẫu. Điểm tổng cộng này có thể chia cho tổng số cá
thể trong mẫu tạo thành điểm số trung bình của mỗi đơn vị phân loại
EPT. Chỉ số EPT đang được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước châu Âu,
Bắc Mỹ cũng như Ấn Độ, Úc, Thái Lan.
Chỉ số EPT nằm trong khoảng từ 0 - 10,0. Chỉ số càng thấp
nước càng sạch và ngược lại nước có độ ô nhiễm càng cao. Dựa vào
chỉ số EPT để đánh giá chất lượng môi trường nước của từng điểm
nghiên cứu theo bảng phân loại.
Trong đó: [EPT Biotic Index = (TVx d) + D]
TV: giá trị chịu đựng của họ d: số lượng cá thể của mỗi họ
D: tổng số cá thể có trong mẫu.
Chỉ số EPT dựa trên mức chống chịu với mức độ ô nhiễm thủy
vực của các họ côn trùng nước và sự có mặt hoặc vắng mặt của các
họ côn trùng ở nước thuộc các bộ Phù du (Ephemeroptera), Cảnh
lông (Trichoptera) và Cánh úp (Plecoptcra). Việc phân tích các điểm
số môi trường và giá trị EPT (Schmidt et al. 1998) được xây dụng
theo hai bước: (i) sự hiện diện của các cá thể cho phép đánh giá các
6
đặc điểm về môi trường sống của chúng, tính toán chỉ số sinh học và
xác định chất lượng nước tại các điểm lựa chọn; (ii) kiểm tra sự khác
nhau về chất lượng nước trong cùng một khu vực hoặc giữa các khu
vực với nhau dựa vào các nhóm đại điện. Các số liệu được phân tích
dựa vào mức độ phong phú của thành phần côn trùng nước EPT (E -
Ephemeroptera, P - Plecoptera, T - Trichoptera) (Wallace et al.,
1996; Voelz et al., 2000) Số lượng cá thể thuộc các họ côn trùng Phù
du (Ephemeroptera), Cánh úp (Plecoptera) và Cánh lông
(Trichoptera) là những thông số quan trọng cho độ phong phú EPT
và chỉ số sinh học EPT. Mức độ chống chịu, mẫn cảm với ô nhiễm
môi trường nước khác nhau theo hệ thống tính điểm chống chịu của
các họ côn trùng ở nước của Hilsenhoff (1988): từ 0 (rất nhạy cảm)
lên đến 10 (ít nhạy cảm với ô nhiễm). Mối liên hệ giữa chất lượng
nước và chỉ số EPT khá chặt chẽ, theo đó mức độ tăng của tác động
sinh học đã làm giảm dần các loài nhạy cảm, dẫn đến làm giảm sự đa
dạng về thành phần loài. Kết quả này xảy ra do số lượng giống, loài
có sức chịu đựng kém chỉ sinh sống ở những vùng nước sạch, trong
khi đó các loài chịu đựng tốt ngày càng xuất hiện nhiều ở vùng nước
ô nhiễm.
2. Ở Việt Nam
2.1. Nghiên cứu về đa dạng loài
Những nguyên cứu năm 2011, Nguyễn Văn Hiếu và nnc đã
tiến hành nghiên cứu thành phần loài và sự phân bố của Phù du tại
suối Mường Hoa, vườn Quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai. Kết quả
đã công bố 71 loài thuộc 35 giống và 12 họ Phù du; trong đó họ
Baetidae có số lượng loài và giống nhiều nhất. Về phân bố theo độ
cao, số lượng loài ở khu vực giữa nguồn chiếm ưu thế hơn so với
7
vùng đầu nguồn và cuối nguồn. Danh lục các loài thuộc họ Cánh úp
lớn (Perlidae) ở Việt Nam được Cao Thị Kim Thu (2011) công bố
gần đây nhất gồm 70 loài thuộc 13 giống, trong đó có 55 loài đặc
hữu của Việt Nam. Hay của Hoàng Đức Huy và cộng sự, 2009, tiến
hành điều tra tính đa dạng côn trùng ở nước theo cấp suối tại vườn
Quốc gia Bỉ Doup Núi Bà, tỉnh Lâm Đồng. Nội dung của nghiên cứu
là khảo sát thành phần loài côn trùng thủy sinh ở các cấp suối tại
vườn Quốc gia Bi Doup - Núi Bà và tìm hiểu sự phân bố của các loài
côn trùng nước theo từng cấp suối phụ thuộc vào nhóm chức năng
mà chúng tham gia. Từ đó đánh giá sự đa dạng của côn trùng thuỷ
sinh theo cấp suối tại vườn Quốc gia. Kết quả đã xác định được 9 bộ
côn trùng ở nước (Coleoptera, Diptera, Ephemeroptera, Hemiptera,
Lepidoptera, Megaloptera, Odonata, Plecoptera, Trichoptera) với 45
họ tại các cấp suối l, 3 và 5.
2.2. Những nghiên cứu về vài trò chỉ thị môi trường nước.
Nguyễn Xuân Quýnh (2001), đã xây dụng quy trình quan trắc
và đánh giá chất lượng nước ngọt bằng ĐVKXS ở Việt Nam thông
qua quá trình nghiên cứu ở hai miền Bắc Nam. Hoàng Đình Trung
với những nghiên cứu sử dụng chỉ số EPT để đánh giá chất lượng
môi trường nước mặt của suối Ta Lu (2017), VQG Bạch Mã (2012),
vùng Hải Vân – TT Huế (2013), suối Năm Cống, Bạch Xà và Đồn
Nhất tại vùng Hải Vân, tỉnh Thừa Thiên Huế đã cho những kết quả
chứng tỏ thấy sử dụng chỉ số EPT là tương đưng với những đánh giá
môi trường nước bằng phương pháp hóa học.
8
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG, ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng
- Thành phần loài côn trùng nước ở vùng Hải Vân, TP Đà
Nẵng, tập trung nghiên cứu ba bộ: bộ Phù du (Ephemeroptera), Cánh
úp (Plecoptera) và bộ Cánh lông (Trichoptera).
2. Thời gian
- Đề tài được tiến hành từ tháng IV năm 2017 đến tháng 12
năm 2017 tại các thủy vực vùng Nam Hải Vân, thành phố Đà Nẵng.
3. Địa điểm
- Tiến hành điều tra, khảo sát, thu thập và phân tích mẫu trên
các hệ thống suối chính theo đai độ cao ở vùng Hải Vân, thành phố
Đà Nẵng.
Bảng 2.1. Điểm thu mẫu theo đai độ cao và đặc điểm thủy vực
STT Địa điểm
thu mẫu
Đai độ
cao
Đặc điểm thủy vực
1 M1 15m
Nền suối dạng cát, cuội sỏi vừa và lớn, tốc
độ dòng chảy thấp, nhiều vùng nước đứng.
2 M2 100m
Nền suối dạng cuội lớn và đá tảng nhỏ, tốc
độ dòng chảy thấp.
3 M3 200m
Nền suối dạng cuội lớn và đá tảng vừa, tốc
độ dòng chảy tương đối nhanh.
4 M4 300m
Nền suối dạng cuội lớn và đá tảng vừa đến
lớn, tốc độ dòng chảy nhanh.
5 M5 400m
Nền suối dạng cuội lớn và đá tảng lớn, tốc
độ dòng chảy nhanh, có sự hình thành các
thác với độ cao khoảng 1m.
9
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu thực địa
* Phương pháp thu mẫu côn trùng ở nước
Dụng cụ thu mẫu:
+ Vợt tay (hand net): gồm một lưới và một tay cầm bằng gỗ sử
dụng để thu mẫu định tính tại những nơi nước nông (hình 2.2).
+ Vợt Surber: Vợt có cấu tạo là hai khung sắt vuông kích
thước bằng nhau gắn với nhau ở một cạnh như bản lề giúp hai khung
sắt có thể mở ra gập lại. Một khung sắt được gắn với một túi lưới,
khung sắt còn lại tự do. Kích thước mắt lưới 1000m và có dùng
thay đổi linh động tùy chất nền để giữ côn trùng bên trong và lọc
nước. Khi thu mẫu, khung tự do được gắn vào nền suối để xác định
diện tích thu mẫu, khung có lưới dựng vuông góc 900 với khung tự
do để thu thập côn trùng.
* Phương pháp tiến hành thu mẫu định lượng
Mẫu được thu định lượng bằng lưới Surber (50cm x 50cm,
kích thước mắt lưới 0,2mm). Sau khi lưới được đặt chắc chắn, dùng
tay rửa nhẹ các hòn đá lớn, nhỏ có trong khung lưới để mẫu rơi vào
túi lưới, sau đó dùng chân sục lớp nền đáy để thu các côn trùng sống
chui rúc bên dưới. Dòng nước sẽ cuốn các sinh vật này trôi vào phía
trong và bị giữ lại bởi lưới.
* Phương pháp thu mẫu định tính
Mẫu vật ngoài tự nhiên được thu thập theo phương pháp điều
tra côn trùng nước của G. F. Jr. Edmunds et al. (1976). Ở nơi có
nhiều bụi cây thủy sinh dùng vợt sục vào các bụi cây và rễ cây ven
bờ suối, ở nơi mức nước cạn thì nhấc đá lên và bắt mẫu bám phía
dưới bằng panh mềm để tránh nát mẫu. Mẫu vật sau khi thu được
10
ngoài tự nhiên được bảo quản bằng formalin 4% hoặc cồn 900
, sau
khi phân tách mẫu thành các phenon, đánh mã số. Đối với dòng chảy
hẹp hoặc vũng nước nhỏ thì việc thu mẫu được thực hiện bằng vợt
cầm tay (kích thước mắt lưới 1mm).
4.2. Phương pháp phân tích trong phòng thí nghiệm
4.2.1. Phương pháp phân tích mẫu côn trùng nước
- Dụng cụ phân tích mẫu bao gồm: Cồn, kính lúp, kính hiển vi,
đĩa petri, khay, panh mềm, kim nhọn, lam kính, lamen, …
- Quan sát dưới kính lúp, kính hiển vi nhằm xác định các đặc
điểm hình thái dùng để định loại, các phần của cơ thể dùng để xác
định như đầu, mắt, bụng, mang, phần phụ miệng, ... Sử dụng kính để
đếm số lượng các chỉ tiêu hình thái, số loài và số cá thể thu bằng
phương pháp định lượng tại các điểm thu mẫu.
- Phương pháp định loại dựa vào các đặc điểm hình thái là
phương pháp cổ điển đang được nhiều nhà khoa học sử dụng phổ
biến hiện nay trong nghiên cứu côn trùng học thủy sinh ở nước ta và
nhiều nước khác trên thế giới. Cụ thể:
+ Đối với Bộ Phù du, sử dụng các tài liệu định loại của các tác
giả trong và ngoài nước đã được công bố: J. V Ward (1992); M. J.
Quigley (1993); R. W. Merritt & K. W. Cummins (1996); Nguyễn
Văn Vịnh (2003), Hoàng Đình Trung (2012).
+ Đối với bộ Cánh úp mẫu vật được định loại dựa trên các tài liệu: Cao
Thị Kim Thu (2002, 2008); R. W. Merritt & K. W. Cummins (1996);
+ Đối với bộ Cánh lông dựa trên các tài liệu: R. W. Merritt &
K. W. Cummins (1996).