Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên cứu sinh kế và nghèo tại các huyện ven biển tỉnh Nam Định
PREMIUM
Số trang
190
Kích thước
3.8 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
852

Nghiên cứu sinh kế và nghèo tại các huyện ven biển tỉnh Nam Định

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Được quan niệm là cách thức mỗi cá nhân và gia đình duy trì cuộc sống, sinh

kế là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu về phát triển và nghèo quan tâm. Cách tiếp

cận sinh kế giúp nhà nghiên cứu có cái nhìn toàn diện về các hoạt động kinh tế của

các chủ thể phát triển, phát hiện những khó khăn cụ thể của từng đối tượng trong quá

trình tăng trưởng kinh tế nói chung và giảm nghèo nói riêng. Khi tiếp cận vấn đề phát

triển dưới góc nhìn sinh kế, hướng tập trung không chỉ là sự tăng trưởng mà còn là

phúc lợi của người dân.

Là một tỉnh duyên hải Đồng bằng Sông Hồng (ĐBSH), cộng đồng ven biển là

một bộ phận quan trọng của dân cư Nam Định. Với ba trong tổng số mười huyện thị

giáp biển, vùng ven biển tập trung tới 34,1% tổng dân số cả tỉnh. Được hưởng lợi từ

nguồn tài nguyên biển phong phú, lại có nhiều khả năng phát triển nền nông nghiệp

thuận lợi, các huyện ven biển Nam Định có cơ cấu kinh tế đa dạng với thế mạnh là

các ngành kinh tế biển. Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế của các

huyện đạt con số đáng khích lệ (khoảng 10-14%/năm, cao hơn tốc độ phát triển kinh

tế toàn tỉnh). Trên cơ sở ấy, sinh kế của người dân khu vực ven biển Nam Định có

nhiều điều kiện để phát triển theo hướng đa dạng, năng động và hiệu quả, trong đó

nổi bật là nhóm sinh kế liên quan đến nguồn lợi biển. Các sinh kế đã có những tác

động tích cực đến công cuộc giảm nghèo của các địa phương, khiến tỉ lệ nghèo ở các

huyện giảm nhanh, trung bình 2-3%/năm trong giai đoạn 2010 – 2015.

Tuy nhiên, những sinh kế của người dân ven biển Nam Định hiện nay còn thiếu

tính bền vững do những bất cập trong việc tiếp cận tài nguyên của người dân địa

phương. Bên cạnh đó, cộng đồng dân cư ven biển rất dễ bị tổn thương bởi những biến

đổi của tự nhiên do tính nhạy cảm của các hệ sinh thái (HST) ở vị trí giáp ranh giữa

đất liền và đại dương. Tính không bền vững của những sinh kế tại địa phương còn

được tạo ra bởi sự bất hợp lý trong cách thức khai thác nguồn lợi, bởi sự chồng chéo

và xung đột nhau của các lĩnh vực kinh tế và trong nhiều trường hợp, bởi sự yếu kém

của hệ thống quản lý và quy hoạch. Đồng thời, quá trình phát triển sinh kế của người

dân ven biển đang làm nảy sinh những xung đột với việc bảo vệ môi trường và tài

nguyên cũng như xung đột giữa các cộng đồng dân cư, làm tăng nguy cơ thiệt hại do

những tác động bất lợi của tự nhiên và xã hội. Điều này đã làm hạn chế các thành quả

của công tác giảm nghèo và cải thiện đời sống nhân dân. Trong điều kiện ấy, việc

nghiên cứu để tìm ra các giải pháp giảm thiểu nguy cơ tổn thương của dân cư ven

biển dưới tác động của các biến đổi bất lợi của tự nhiên cũng như kinh tế - xã hội

(KTXH) là yêu cầu cần thiết đối với sự phát triển của các huyện ven biển. Với lý do

đó, đề tài “Nghiên cứu sinh kế và nghèo tại các huyện ven biển tỉnh Nam Định” đã

được lựa chọn cho luận án nhằm phát hiện những vấn đề tồn tại của các sinh kế hiện

2

tại, tìm giải pháp phát triển sinh kế và nâng cao đời sống nhân dân của vùng ven biển

Nam Định.

Luận án tập trung giải quyết các câu hỏi nghiên cứu chính sau:

- Các sinh kế tại các huyện ven biển Nam Định đang chịu ảnh hưởng của những

nhân tố nào, hiện nay đang phát triển ra sao và có tác động gì đến tình trạng nghèo

của các địa phương?

- Các hộ gia đình tại các huyện ven biển Nam Định đang sử dụng những nguồn

vốn nào để thực hiện chiến lược sinh kế và đạt được kết quả sinh kế ra sao? Các sinh

kế có mối quan hệ như thế nào với tình trạng nghèo của các hộ gia đình tại địa phương?

- Những giải pháp nào cần được thực hiện nhằm phát triển sinh kế và giảm

nghèo tại các huyện ven biển Nam Định?

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Luận án phân tích dưới góc độ địa lý các nhân tố ảnh hưởng đến sinh kế và

nghèo, hiện trạng sinh kế và nghèo tại các huyện ven biển tỉnh Nam Định nhằm phát

hiện những vấn đề tồn tại và tìm ra các giải pháp cho phát triển sinh kế và giảm nghèo

tại khu vực này.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Đúc kết, hệ thống hóa cơ sở lý luận về sinh kế và nghèo; xác định các nhân tố

ảnh hưởng và các tiêu chí đánh giá sinh kế và nghèo; phân tích các đặc điểm sinh kế

và nghèo ở vùng ven biển.

- Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến sinh kế và nghèo; phân tích hiện trạng và

sự phân hóa không gian của các sinh kế và nghèo tại các huyện ven biển tỉnh Nam

Định; đánh giá mối quan hệ giữa sinh kế và nghèo tại các địa phương.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển sinh kế và giảm nghèo tại các huyện

ven biển tỉnh Nam Định.

3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài

3.1. Về nội dung nghiên cứu:

Luận án tập trung vào nghiên cứu hai vấn đề chính: sinh kế và nghèo.

- Về sinh kế: Việc phân tích sinh kế tập trung ở cấp huyện, cấp xã và hộ gia

đình.

Ở chương 2 của luận án, do phạm vi phân tích ở cấp cao (cấp huyện) và khả

năng tiếp cận với các nguồn tài liệu của nghiên cứu sinh (NCS), các hoạt động kinh

tế của địa phương được quan niệm là sinh kế của người dân và các hoạt động này

được phân tích dựa trên nguồn tài liệu thứ cấp đã thu thập. Phần phân tích này tập

trung vào 3 nội dung: các nhân tố ảnh hưởng đến sinh kế và nghèo, các sinh kế chính

tại các huyện và hiện trạng nghèo tại các địa phương.

3

Do việc phát triển sinh kế tùy thuộc vào nguồn vốn cũng như chiến lược lựa

chọn của từng hộ gia đình nên trong chương 3, khi phân tích hiện trạng phát triển sinh

kế, NCS đi sâu nghiên cứu trường hợp cụ thể của 3 xã thuộc 3 huyện và được phân

tích ở cấp độ hộ gia đình dựa trên kết quả nghiên cứu thực địa. Sở dĩ ba xã Giao Xuân,

Hải Chính và Nghĩa Hải được chọn để nghiên cứu sâu vì ba xã này có sinh kế đa dạng

và tiêu biểu cho khu vực ven biển của tỉnh Nam Định. Những thành công cũng như

những bất cập, hạn chế trong quá trình phát triển sinh kế của người dân các xã là

những bài học kinh nghiệm cho nhiều địa phương khác.

- Nội dung về nghèo được nghiên cứu như là kết quả của các sinh kế, vì vậy

NCS chủ yếu tập trung phân tích tỉ lệ nghèo và đánh giá mối quan hệ giữa sinh kế và

nghèo ở cả cấp cộng đồng và hộ gia đình.

3.2. Về không gian:

Luận án tập trung vào địa bàn ba huyện ven biển của tỉnh Nam Định với 82 xã,

thị trấn: Giao Thủy (22 xã, 9 xã giáp biển), Hải Hậu (35 xã, 6 xã giáp biển) và Nghĩa

Hưng (25 xã, 4 xã giáp biển). Trong đó, NCS đi sâu nghiên cứu trường hợp ba xã

giáp biển: Giao Xuân (Giao Thủy), Hải Chính (Hải Hậu) và Nghĩa Hải (Nghĩa Hưng).

Trong nghiên cứu, NCS đã chú ý đặt các huyện ven biển trong bối cảnh (mối

quan hệ) với toàn tỉnh Nam Định và vùng ven biển ĐBSH.

3.3. Về thời gian:

Các phân tích định tính được giới hạn từ năm 2000 đến 2015, định hướng đến

2020 và tầm nhìn đến 2030.

Để đảm bảo tính thống nhất, liên tục và chính thống của số liệu, hầu hết các số

liệu thống kê đều tập trung trong giai đoạn 2010 – 2015, phần định hướng và giải

pháp đến năm 2020 và 2030.

4. Quan điểm tiếp cận và phương pháp nghiên cứu:

4.1. Quan điểm tiếp cận

4.1.1. Quan điểm hệ thống

Mỗi đối tượng nghiên cứu là một chỉnh thể thống nhất được tạo thành bởi nhiều

yếu tố, đồng thời cũng là bộ phận của một chỉnh thể lớn hơn. Vì vậy khi nghiên cứu

bất kì đối tượng nào cần phải đặt trong hệ thống mới có thể xem xét một cách sâu sắc

và toàn diện. Tính hệ thống thể hiện trong nghiên cứu còn là sự nhất quán trong cách

nhìn nhận, sự đồng bộ, tính hợp lý và logic của hệ thống số liệu, tài liệu.

Quan điểm hệ thống trong đề tài được thể hiện thông qua cách nhìn nhận vấn

đề sinh kế và nghèo tại các huyện ven biển tỉnh Nam Định là một bộ phận của những

hệ thống lớn hơn như nền kinh tế và công cuộc giảm nghèo của toàn tỉnh, toàn vùng.

Mặt khác, sinh kế của cộng đồng dân cư ven biển là một hệ thống được cấu thành bởi

nhiều nhân tố tự nhiên và KTXH khác nhau mà mối quan hệ giữa các nhân tố này sẽ

có ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống.

4

4.1.2. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ

Vấn đề sinh kế và nghèo tại các huyện ven biển được xem xét như một bộ phận

của chiến lược phát triển KTXH toàn tỉnh Nam Định cũng như mối quan hệ với vùng

ĐBSH và toàn quốc. Khi nghiên cứu vấn đề sinh kế và nghèo tại các huyện ven biển,

những đặc điểm chung về kinh tế và nghèo của vùng ven biển ĐBSH giúp nhà nghiên

cứu có những nhận định xác đáng. Quan điểm này cũng yêu cầu nhà nghiên cứu tìm

ra sự phân hóa không gian của các sinh kế và nghèo tại các địa phương trên cơ sở sự

khác biệt của tự nhiên và các điều kiện KTXH.

4.1.3. Quan điểm lịch sử – viễn cảnh

Quan điểm lịch sử – viễn cảnh được vận dụng vào nghiên cứu đề tài thể hiện ở

việc thấy được những thay đổi trong quá trình phát triển KTXH và công cuộc giảm

nghèo của tỉnh Nam Định và các huyện ven biển qua từng thời kì. Từ đó đánh giá

đúng hiện trạng sinh kế và nghèo của các huyện ven biển tỉnh Nam Định. Trên cơ sở

đó đưa ra triển vọng của việc phát triển sinh kế và giảm nghèo trong tương lai

4.1.4. Quan điểm phát triển bền vững (PTBV)

PTBV ngày nay đã trở thành xu hướng tất yếu, vừa là mục tiêu - cái đích để

hướng tới, vừa là quan điểm phát triển cho mọi hoạt động của nhân loại.

Đối với đánh giá sinh kế và nghèo, vận dụng quan điểm này trở thành vấn đề sống

còn. Quán triệt quan điểm PTBV trong luận án được thể hiện việc đánh giá các nguồn

vốn sinh kế hoặc phân tích thực trạng sinh kế hay đề xuất các giải pháp. Tính bền vững

được đánh giá trên cả ba khía cạnh: kinh tế, xã hội và môi trường.

4.2. Phương pháp nghiên cứu:

Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu, NCS đã áp dụng một số phương

pháp nghiên cứu chính sau:

4.2.1. Phương pháp thu thập, xử lý tài liệu:

Phương pháp này được tiến hành theo các bước:

- Xác định các đối tượng, nội dung và dạng thông tin cần thu thập: các tài liệu

liên quan đến cơ sở lí luận về sinh kế và nghèo; về đặc điểm sinh kế và nghèo của

vùng ven biển; về nguồn vốn và hiện trạng sinh kế các huyện ven biển tỉnh Nam Định;

về hiện trạng nghèo tại các huyện ven biển; về định hướng và quy hoạch phát triển...

- Tiến hành thu thập tài liệu theo kế hoạch và danh mục đã lập từ tháng 6/2013

đến tháng 12/2016.

+ Các tài liệu bao gồm những nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước

về vấn đề sinh kế và nghèo; những văn bản về công cuộc giảm nghèo ở Việt Nam của

các tổ chức quốc tế như UNDP, WB, UN, Oxfarm, DFID, SIDA, AusAID… và của

Chính phủ cũng như các Bộ, ban ngành ở Việt Nam.

5

+ Đối với tỉnh Nam Định, NCS thu thập những số liệu về nghèo tại các cuộc

điều tra của Sở và Phòng LĐ, TB & XH các huyện; những báo cáo hàng năm, giai

đoạn và quy hoạch phát triển KTXH toàn tỉnh, các huyện cũng như từng ngành; Niên

giám thống kê của tỉnh và các huyện; các báo chí chuyên ngành và của tỉnh… Những

tài liệu thu thập đảm bảo tính chính xác, cập nhật với những thay đổi của địa phương.

+ Các tài liệu liên quan đến sự phát triển KTXH, đặc điểm dân cư, sinh kế và

nghèo của một số xã cụ thể mà NCS lựa chọn làm trọng tâm cho nghiên cứu đã được

thu thập trong khoảng thời gian tháng 6/2016 – tháng 12/2016.

- Đánh giá, xử lí tài liệu đã thu thập được: Đây là bước rất cần được chú trọng,

bởi vì tài liệu (nhất là số liệu thống kê) thu thập được mới chỉ là số liệu thô. Trong

nhiều trường hợp, cùng một số liệu thống kê, trong các nguồn khác nhau lại rất khác

nhau. Vì vậy, để có số liệu chính xác cần phải có bước xử lí.

4.2.2. Phương pháp phỏng vấn:

Các cuộc phỏng vấn được thực hiện với các cán bộ quản lý địa phương từ cấp

huyện tới cấp xã và cấp thôn dựa trên Nội dung phỏng vấn các cán bộ quản lý cấp

huyện, xã, thôn (Phụ lục 1) với các bước như sau:

- Bước 1: Phỏng vấn một số cán bộ quản lý cấp huyện nhằm các mục đích:

+ Nắm bắt khái quát đặc điểm KTXH của các địa phương ven biển; thu thập các

tài liệu liên quan đến vấn đề sinh kế và nghèo tại các huyện.

+ Xác định các xã nghiên cứu: Được sự tham vấn của các cán bộ quản lý, NCS

đã lựa chọn 3 xã tại 3 huyện để nghiên cứu: Giao Xuân, Hải Chính và Nghĩa Hải.

- Bước 2: Phỏng vấn một số cán bộ quản lý cấp xã tại 03 xã nêu trên nhằm:

+ Hiểu khái quát đặc điểm tự nhiên cũng như tình hình phát triển KTXH của

địa phương; thu thập các tài liệu thứ cấp có liên quan.

+ Xác định các thôn (xóm) tiến hành điều tra xã hội học: NCS đã lựa chọn 6

thôn để tiến hành điều tra: xóm Xuân Phong và xóm Xuân Hoành (Giao Xuân); xóm

1 và xóm Tây Ninh (Hải Chính); thôn Ngọc Lâm và thôn Phú Thọ (Nghĩa Hải).

- Bước 3: Phỏng vấn cán bộ quản lý cấp thôn tại 06 thôn đã xác định ở trên nhằm

hiểu khái quát đặc điểm kinh tế và nghề nghiệp của dân cư trong thôn.

Bên cạnh việc phỏng vấn các cán bộ quản lý địa phương, NCS tiến hành phỏng

vấn sâu một số cá nhân là những người có hiểu biết sâu sắc về cộng đồng dân cư nhằm

nằm bắt được lịch sử phát triển của địa phương và những vấn đề liên quan đến sinh

kế cũng như đời sống người dân, những thay đổi của các sinh kế so với trước kia.

4.2.3. Phương pháp điều tra xã hội học:

Việc điều tra xã hội học là một yêu cầu cần thiết nhằm góp phần kiểm định các

số liệu đã thu thập, phát hiện các “lỗ hổng” trong nghiên cứu để bổ sung kịp thời

nhằm đưa ra được các kết quả có độ tin cậy. NCS đã thực hiện theo các bước sau đây:

6

a) Xác định nội dung điều tra

- Mục đích điều tra: nhằm bù đắp các thông tin thiếu hụt hoặc chưa đủ để phục

vụ phân tích nguồn lực sinh kế, chiến lược sinh kế, kết của sinh kế và mối quan hệ

giữa sinh kế và hiện trạng nghèo của các hộ gia đình tại các xã nghiên cứu.

- Đối tượng điều tra: các hộ gia đình tại các xã nghiên cứu đã được xác định ở

trên bởi vì mỗi hộ là một chủ thể trong việc sử dụng các nguồn vốn sinh kế để thực

hiện các chiến lược sinh kế. Tại mỗi hộ tiến hành khảo sát trực tiếp theo mẫu phiếu

điều tra.

- Nội dung điều tra:

+ Những thông tin chung về hộ như số thành viên trong hộ, họ tên, tuổi, giới

tính, số năm đi học, sức khỏe, tình hình tham gia BHYT, công việc và nơi làm việc

của từng thành viên hộ (là nguồn vốn con người), tình hình chuyển cư cũng như mức

độ tham gia vào các tổ chức xã hội (nguồn vốn xã hội), nguồn vốn sản xuất, nguồn

vay… (nguồn vốn tài chính)

+ Các chiến lược sinh kế: là các hoạt động sản xuất của hộ gia đình. Theo kết

quả phỏng vấn các cán bộ quản lý, có các loại hình sinh kế sau:

• Sinh kế nông nghiệp: gồm loại cây trồng, vật nuôi, quy mô, và TN

• Sinh kế nuôi trồng thủy sản (NTTS): đối tượng nuôi, quy mô và TN

• Sinh kế khai thác thủy sản (KTTS): phương tiện, đối tượng và TN

• Sinh kế làm muối: diện tích, thời gian và TN

• Sinh kế tự kinh doanh các ngành nghề phi nông nghiệp: lĩnh vực, nghề, TN

• Sinh kế làm thuê: lĩnh vực, thời gian, TN

• Sinh kế di cư: nơi làm việc, công việc, số tiền gửi về

+ Những thông tin về khó khăn, nguyện vọng, thay đổi sinh kế của hộ...

+ Những thông tin về tác động của sinh kế đến nghèo

- Chọn mẫu: Sau quá trình phỏng vấn các cán bộ thôn, NCS đã tiến hành lập

danh sách các hộ tại các thôn kể trên theo sinh kế chính đã được xác định ở trên (được

tính là sinh kế mang lại nguồn TN lớn nhất cho hộ). Sau đó tác giả tiến hành lựa chọn

các hộ điều tra theo tỉ lệ các hộ theo nhóm sinh kế này.

- Thời gian điều tra: tháng 6,7,8 năm 2016

b) Xây dựng phiếu điều tra

Trên cơ sở nội dung đã đề ra, NCS xây dựng Phiếu điều tra hộ gia đình (Phụ

lục 2).

c) Tiến hành điều tra theo kế hoạch

Điều tra theo phương pháp phỏng vấn trực tiếp, đến gặp chủ hộ hoặc thành viên

trong hộ để phỏng vấn và ghi thông tin vào phiếu (số phiếu cụ thể tại từng địa phương

được thể hiện ở Phụ lục 3).

7

d) Xử lí kết quả điều tra

Từ các phiếu điều tra thu thập được, NCS xử lí bằng phần mềm SPSS (theo các

bước: khởi tạo biến, nhập và làm sạch dữ liệu, mã hóa dữ liệu, xử lí và phân tích dữ

liệu) để phân chia thành các nhóm hộ khác nhau, từ đó đánh giá, phân tích.

4.2.4. Phương pháp quan sát:

NCS đã trực tiếp quan sát một số sinh kế chính của người dân vùng ven biển:

nông nghiệp, làm muối, NTTS, KTTS thủ công ven bờ, buôn bán cá tại các bến cá,

chợ cá, cơ sở công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp (TTCN)… để hiểu được cách thức

sản xuất của người dân.

NCS tiến hành quan sát hệ thống cơ sở hạ tầng (CSHT) và cơ sở vật chất kĩ

thuật được địa phương và các hộ gia đình sử dụng trong phát triển sinh kế.

NCS cũng đã trực tiếp chứng kiến và cảm nhận sự ảnh hưởng và sức tàn phá

của cơn bão số 1, tháng 7/2016 đối với người dân địa phương.

4.2.5. Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp

Sau khi thu thập và xử lí, từ hệ thống tài liệu liên quan, NCS sử dụng hàng loạt

phương pháp như phân tích, tổng hợp, so sánh (theo thời gian, không gian, theo các

đối tượng cùng loại) để phát hiện những kết luận mới. Trên cơ sở những số liệu đã thu

thập, sử dụng các phương pháp thống kê để có hệ thống số liệu phục vụ nghiên cứu.

Các biện pháp xử lý số liệu giúp cho người nghiên cứu tìm ra được những số liệu

chính xác nhất, phản ánh đúng bản chất của vấn đề. Việc xử lý số liệu thể hiện trong

việc hệ thống hoá các số liệu thành các bảng hay trực quan hoá thành các biểu đồ

thông qua hai phần mềm là SPSS và Microsoft Excel.

4.2.6. Phương pháp chuyên gia

Trong quá trình nghiên cứu, NCS trực tiếp trao đổi và tham khảo ý kiến các nhà

khoa học có kinh nghiệm về các vấn đề liên quan tới đề tài. Trong nghiên cứu thực địa,

NCS đặc biệt chú ý việc phỏng vấn, thảo luận với các chuyên gia, các cán bộ thuộc

UBND các huyện ven biển; Phòng Nông nghiệp, Phòng Công thương, Phòng LĐ, TB

&XH các huyện và nhà quản lí các cấp - những người đã và đang trực tiếp thực hiện

nhiều đề tài, dự án về phát triển kinh tế và giảm nghèo để tiếp thu thêm phương pháp

nghiên cứu, kế thừa nguồn tài liệu và học hỏi những kinh nghiệm thực tiễn. Nhờ đó,

NCS đã giải quyết được những khó khăn, vướng mắc để thực hiện các nhiệm vụ đặt ra.

Danh sách các chuyên gia được thể hiện qua Phụ lục 4.

4.2.7. Phương pháp bản đồ, GIS

Bản đồ được sử dụng trước hết như những tài liệu tham khảo trong quá trình

nghiên cứu. Sau đó, các kết quả nghiên cứu sẽ được thể hiện trực quan bằng các bản

đồ thông qua phần mềm MapInfo. Nhờ hệ thống bản đồ này, những đặc trưng và đặc

biệt là sự phân bố các sinh kế cũng như hiện trạng nghèo của địa phương sẽ được thể

8

hiện rõ. Qua quá trình nghiên cứu, NCS đã xây dựng được 07 bản đồ và 03 sơ đồ như

Danh mục các bản đồ và sơ đồ.

5. Những đóng góp của luận án

5.1. Về mặt khoa học

- Tổng hợp và phân tích các cơ sở lý luận về sinh kế, nghèo cũng như mối quan

hệ giữa sinh kế và nghèo.

- Làm rõ các đặc điểm về sinh kế và nghèo vùng ven biển để vận dụng vào

nghiên cứu hiện trạng sinh kế và nghèo tại các huyện ven biển Nam Định.

5.2. Về mặt thực tiễn

- Làm rõ các nhân tố tác động đến sinh kế và nghèo tại khu vực ven biển, phân

tích những thuận lợi cũng như khó khăn và hiện trạng sinh kế tại các huyện ven biển

tỉnh Nam Định, sự phân hóa của các sinh kế trên lãnh thổ các huyện.

- Phân tích rõ hiện trạng sinh kế của các hộ gia đình tại các huyện ven biển tỉnh

Nam Định qua việc nghiên cứu trường hợp ba xã cụ thể, làm rõ những thành tựu,

những khó khăn, trở ngại cần khắc phục trong quá trình phát triển các sinh kế, sự khác

biệt về không gian của các sinh kế cũng như mối quan hệ của các sinh kế với hiện

trạng nghèo của địa phương.

- Trên cơ sở hiện trạng sinh kế và nghèo, dựa trên việc phân tích các tác động

của xu hướng phát triển và giảm nghèo của cả nước cũng như toàn tỉnh Nam Định để

đề xuất một số giải pháp thúc đẩy phát triển sinh kế và giảm nghèo tại các huyện ven

biển theo hướng bền vững.

6. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận án được cấu trúc thành 4 chương:

Chương 1: Cơ sở khoa học về sinh kế và nghèo

Chương 2: Các nhân tố ảnh hưởng đến sinh kế và nghèo. Các sinh kế chính và

hiện trạng nghèo tại các huyện ven biển tỉnh Nam Định

Chương 3: Nghiên cứu trường hợp về sinh kế và nghèo tại các huyện ven biển

tỉnh Nam Định.

Chương 4: Định hướng, giải pháp phát triển sinh kế và giảm nghèo tại các huyện

ven biển tỉnh Nam Định

9

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1:

CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ SINH KẾ VÀ NGHÈO

1.1. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu

1.1.1. Về sinh kế

1.1.1.1. Về khái niệm sinh kế

Khái niệm sinh kế được phát biểu lần đầu tiên bởi Ủy ban Môi trường và Phát

triển Thế giới (WCED, 1987) [158]. Một định nghĩa đầy đủ hơn của Conway

Chambers (1992) về sinh kế trong công trình Sustainable rural livelihoods: Practical

concepts for the 21st century [128] đã trở thành khái niệm cơ sở cho những nghiên

cứu tiếp theo về sinh kế.

Dựa trên khái niệm về sinh kế này, một số nhà nghiên cứu khác như Ashley và

Carney (1999) [126], Frank Ellis (1999) [131] cũng đưa ra những định nghĩa khác

nhau về sinh kế phù hợp với từng khu vực và bối cảnh nghiên cứu nhưng có nhiều

điểm đồng nhất. Năm 2001, Cơ quan Phát triển Quốc tế Vương quốc Anh (DFID)

đưa ra khái niệm sinh kế để định hướng cho các hoạt động hỗ trợ phát triển [129] với

nhiều khía cạnh tương đồng với các nghiên cứu trên.

Tuy nhiên, một số tác giả, tiêu biểu như Miranda Cahn (2002) đã nhâṇ điṇ h rằng

cần điều chỉnh khái niệm sinh kế khi áp dụng ở những khu vực khác nhau, ví dụ như

khu vực Thái Bình Dương do có những đặc trưng về văn hóa và truyền thống. Cahn

cho rằng khi áp dụng khung SKBV ở khu vực Thái Bình Dương cần chú ý đến các

yếu tố văn hóa, truyền thống (bao gồm cả đặc trưng về giới), vìcác yếu tố này có tác

động đến sinh kế ở nhiều khía cạnh khác nhau [143].

Một số nhà nghiên cứu về sinh kế ở Việt Nam đã tổng hợp những quan niệm về

sinh kế trên cả khía cạnh học thuật và vận dụng trong cuộc sống. Một nghiên cứu

mang tính tổng hợp và phân tích cơ sở lý luận về sinh kế của các tác giả trên thế giới

là Khung SKBV: một cách phân tích toàn diện về tăng trưởng và giảm nghèo [73] của

Nguyễn Văn Sửu (2010). Chu Maṇ h Trinh (2008) đã làm rõ sự thay đổi của thuật ngữ

sinh kế từ nghĩa thông thường trước đây đến những khía cạnh khác trong các nghiên

cứu hiện nay [81]. Bên cạnh đó, tác giả cũng đề cập tới các yếu tố ảnh hưởng, đến

các điểm mạnh, khả năng chịu đựng và những rủi ro trong cách kiếm sống của người

dân. Những yếu tố này có thể có tác động trực tiếp như nguồn vốn, công việc, hoạt

động văn hóa, các trợ giúp để tiếp cận (hoặc hạn chế khả năng tiếp cận) nguồn vốn,

hoặc gián tiếp như chính sách, thể chế, và các quá trình ảnh hưởng đến việc lựa chọn

sinh kế của người dân. Định nghĩa sinh kế cũng được đề cập đến trong nghiên cứu

của Mạng lưới các trung tâm NTTS Châu Á – Thái Bình Dương (2006) [41].

Từ khái niệm về sinh kế, nhiều tác giả cũng đề cập đến khái niệm sinh kế bền

vững (SKBV - Sustainable Livelihood) để trả lời cho câu hỏi khi nào một sinh kế

được coi là bền vững. WCED cho rằng SKBV là một khái niệm lồng ghép và là

phương tiện để đạt được 2 mục tiêu trong phát triển kinh tế: công bằng và bền vững

10

[158]. Khái niệm này cũng được Scoones (1998) đề cập [137] và Hanstad (2004) diễn

giải [154] với những nét tương đồng về tính chất lâu bền theo thời gian của các nguồn

vốn, đặc biệt là nguồn vốn tự nhiên. Các nhà nghiên cứu của DFID [129] lại quan

niệm về tính bền vững của sinh kế dựa trên khả năng phụ hồi trước biến động, tính ít

phụ thuộc và mối quan hệ với các sinh kế khác.

1.1.1.2. Về việc đánh giá tính bền vững của sinh kế

Để đánh giá tính bền vững của sinh kế, các nhà nghiên cứu đã đề xuất khung

SKBV. Mặc dù có rất nhiều tổ chức sử dụng khung phân tích sinh kế với các mức độ

vận dụng khác nhau, khung phân tích sinh kế có thành phần cơ bản giống nhau, trong

đó được quan tâm nhất là các nguồn vốn (tài sản) sinh kế. Hầu hết các nghiên cứu

đều cho rằng con người dựa vào năm loại vốn để đảm bảo sinh kế hay giảm nghèo.

Tuy nhiên, cách gọi tên của các nguồn vốn này không thực sự giống nhau trong các

nghiên cứu của Ian Scoones (1998) [137] và Anthony Bebbington (1999) [125].

Trong khi đó, DFID (2001) [129] vàJulian Hamilton-Peach, Philip Townsley (2004)

trong An IFAD sustainable livelihood framework [140] đều tương đối thống nhất về

5 nguồn vốn: Vốn con người, Vốn tự nhiên, Vốn vật chất, Vốn tài chính, Vốn xã hội.

Khung phân tích sinh kế là mô hình toàn diện nhằm đặt con người ở vị trí trung

tâm trong quá trình phân tích để xây dựng các chiến lược phát triển. Năm 1998, khung

SKBV khu vực nông thôn được phát triển bởi Scoones [137] được xác định phù hợp

với điều kiện của khu vực nông thôn. Trên cơ sở ấy, DFID (2001) đã xây dựng khung

SKBV chung cho tất cả các sinh kế [129].

Tác giả Koos Neefjes (dịch giả Nguyễn Văn Thanh, 2003) trong Môi trường và

sinh kế: các chiến lược phát triển bền vững [36] lại phát triển khung SKBV dựa trên

mối quan hệ chủ yếu với môi trường.

Năm 2004, IMM đã sửa đổi lại khung phân tích của DFID để áp dụng cho các

cộng đồng ven biển, được gọi là “Khung SKBV vùng ven biển” (trích theo [3]). Ưu

điểm của khung sinh kế này là các chỉ báo được đề cập rất cụ thể và chi tiết. Tuy

nhiên cũng do tính chi tiết này nên việc phân tích khá phức tạp.

Từ các khung sinh kế này, năm 2004, quỹ Phát triển Nông nghiệp quốc tế

(IFAD) nỗ lực phát triển và kết hợp một số thay đổi so với khung SKBV của DFID

(An IFAD sustainable livelihood framework [140]). Khung phân tích SKBV mới

được IFAD đưa ra đầy đủ các yếu tố hơn, thể hiện mối quan hệ chặt chẽ hơn giữa các

yếu tố và làm rõ quan điểm lấy người nghèo làm trung tâm. Đây được xem như một

mô hình để tham khảo trong quá trình phân tích sinh kế cộng đồng.

Một cách khác để đánh giá tính bền vững của sinh kế là cách đánh giá dựa trên

những khía cạnh của PTBV: môi trường, kinh tế, xã hội và thể chế cũng được DFID

đề xuất trong Susstainable livelihoods guidance sheets [129].

1.1.1.3. Về việc vận dụng khung lý thuyết sinh kế trong các nghiên cứu cụ thể

Xu hướng nổi bật của các nghiên cứu là vận dụng các lý thuyết này vào các

trường hợp nghiên cứu cụ thể như Nguyễn Tường Huy (2013) ở khu vực đầm Nha

11

Phu, Khánh Hòa [136] hay Nguyễn Đăng Hiệp Phố (2016) phân tích sinh kế của

người Mạ ở Vườn quốc gia (VQG) Cát Tiên [60].

Các nghiên cứu chủ yếu tâp̣ trung vào phân tích những biến đổi và khả năng

thích ứng của các sinh kế dân cư đối vớ

i những biến đôṇ g của tựnhiên cũng như xã

hôị. Từ đó các tác giả khuyến nghi ̣những vấn đề cần quan tâm trong viêc̣ xây dưṇ g

các chính sách liên quan đế phá

t triển sinh kế.

Điều kiện tự nhiên được xác định là có ảnh hưởng mạnh đến sinh kế của người

dân. Đó có thể là điều kiện khí hậu như nhận định của Nguyêñ Troṇ g Xuân, Trần

Hoàng Sa [120] hoặc các loại thiên tai như trong nghiên cứu của nhóm tác giả Võ

Hồng Tú

, Nguyêñ Duy Cần [85].

Một số tác giả khác lại quan tâm nhiều hơn đến các nhân tố KTXH như Nguyễn

Đăng Hào (2010) đã sử duṇ g phương pháp đánh giá sinh kế có sự tham gia và phỏng

vấn nông hộ ở vùng cát ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế để thấy chiến lược sinh kế dựa

vào nông nghiệp vẫn được áp dụng phổ biến nhưng có sự dịch chuyển đáng kể theo

hướng đa dạng hóa [30]. Nghiên cứu Tầm nhìn nông hộ lâp̣ kế hoac̣ h sinh kế: Ứng

duṇ g nghiên cứu và khuyến nông có sự tham gia (2008) của Dương Văn Sơn đãáp

duṇ g cách tiếp câṇ mớ

i trong quá

trình lâp̣ kế hoac̣ h sinh kế: tiếp câṇ tầm nhìn vớ

i

troṇ g tâm là viêc̣ xác điṇ h cu ̣thể muc̣ tiêu trong tương lai gần, trên cơ sở sựtham gia

của ngườ

i dân, để xác điṇ h các chiến lươc̣ sinh kế cho nông dân tỉnh Bắc Kaṇ [72].

Nghiên cứu về sinh kế ở khu vưc̣ ven biển Viêṭ Nam như SKBV cho các khu

bảo tồn biển Viêṭ Nam (2007) của Angus McEwin và các đồng sự đã khẳng điṇ h vai

trò quan troṇ g của tà

i nguyên đối vớ

i các chiến lươc̣ sinh kế. Sự PTBV của nghề cá

phải dựa trên việc bảo vệ các sinh cảnh biển và ven biển [3]. Do vậy, để đảm bảo tính

bền vững của các sinh kế cho cộng đồng ngư dân phải đặc biệt chú trọng vào bảo vệ

và sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên biển.

Từ những khá

i quá

t về các nguồn lưc̣ sinh kế của dân cư vùng ven biển Thanh

Hóa, Khánh Hòa và Sóc Trăng, Nguyêñ Xuân Mai và Nguyêñ Duy Thắng (2011)

khẳng điṇ h các hoaṭ đôṇ g sinh kế của côṇ g đồng ven biển thường xuyên chiụ những

rủi ro lớn [39]. Điều đó

làm cho môṭ bô ̣phâṇ lớn trong côṇ g đồng rơi vào vòng xoáy

của sự nghèo khổ, taọ nên áp lưc̣ lớn đối vớ

i vùng ven bờ

. Vì vâỵ , để giảm thiểu

những rủi ro sinh kế hiêṇ thờ

i, bảo vê ̣và PTBV các nguồn tà

i nguyên ven biển, cần

nghiên cứu và xây dưṇ g các mô hình sinh kế thay thế.

Trong nghiên cứu Phá

t triển sinh kế điạ phương góp phần bảo vê ̣và sử duṇ g

bền vững tà

i nguyên thiên nhiên và môi trường (2008), tác giả Chu Maṇ h Trinh thấy

có mối quan hê ̣chặt chẽgiữa sinh kế côṇ g đồng vớ

i đồng quản lý

, trên cơ sở sử duṇ g

chung các loaị vốn sinh kế (đăc̣ biêṭ là vốn tựnhiên và vốn xãhôị). Vì vâỵ đối vớ

i

côṇ g đồng ở Cù Lao Chàm, rất cần thiết phải thành lâp̣ các hội ngành nghề để quản

lý chăṭ chẽchất lươṇ g sản phẩm, có

tiếng nó

i chung bảo vê ̣lơị ích côṇ g đồng [81].

Tâp̣ trung vào mối quan hê ̣giữa sinh kếvàBĐKH, nghiên cứu do DFID, UNDP

và Bộ Tài nguyên Môi trường (2009) tiến hành đã xem xét phương hướng phục hồi

12

các sinh kế ở vùng ven biển miền Trung Việt Nam, những nơi chịu nhiều tác động

bất lợi của BĐKH nhất [10]. Trên cơ sở đó, báo cáo xác định các biện pháp và các

chiến lược thích ứng nhằm giảm bớt các tổn thương của sinh kế vùng ven biển, xây

dựng khả năng phục hồi do các tác động của khí hậu.

Cũng đề cập đến vấn đề tương tự, hai tác giả Trần Tho ̣Đaṭ và VũThi ̣Hoà

i Thu

qua các công trình nghiên cứu của mình, dù ở các quy mô nghiên cứu khác nhau, đều

cho thấy việc gia tăng các rủi ro từ khí hậu là một trong những áp lực làm gia tăng

nguy cơ tổn thương của những sinh kế dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên tại các

cộng đồng ven biển [22], [23], [24].

1.1.2. Về nghèo

Là một vấn đề mang tính toàn cầu, nghèo luôn là một đề tài thu hút các nhà

nghiên cứu. Từ những nghiên cứu về lý thuyết và phương pháp luận, các nhà khoa

học hướng tới việc tổng kết những bài học kinh nghiệm từ thành công và thất bại của

các quốc gia trong quá trình tăng trưởng và giảm nghèo, phát hiện và tìm tòi những

vấn đề mới nảy sinh, những thách thức mới của quá trình này.

1.1.2.1. Về khái niệm nghèo

Hầu hết các nghiên cứu về nghèo của A.J. M. Hagenaars (1986) [135] hay

Yujiro Hayami và Yoshihisa Godo (2005) [161] đều gắn chặt với việc hưởng thụ các

phúc lợi của cá nhân và hộ gia đình.

Hội nghị bàn về giảm nghèo ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương tổ chức tại

Bangkok (1993) và nghiên cứu Poverty report 1998: Overcoming human poverty của

UNDP (1997) [156] đã đưa ra nhiều khía cạnh và mức độ khác nhau của nghèo trong

đó tính cả đến nhu cầu lương thực và phi lương thực, và cả những quyền cơ bản của

con người trong xã hội. Đây cũng là quan điểm của WB qua nghiên cứu Báo cáo phát

triển Việt Nam năm 2000: Tấn công nghèo đói [45] và Cơ quan phát triển quốc tế của

Australia (AusAID, 2002) trong Vietnam poverty analysis [124]. Như vậy, từ cách

nhìn nhận đơn thuần nghèo là sự thiếu thốn về vật chất, cho đến nay, khái niệm nghèo

đã mở rộng và bao quát hơn, bao gồm cả những khía cạnh phi vật chất, trong đó nhấn

mạnh đến vị thế xã hội (theo Jonathan Bradshaw và David Gordon (1998) [139]).

UNDP (2015) nhìn nhận nghèo bao hàm cả sự thiếu thốn về vật chất, sự xa lánh xã

hội và tính dễ tổn thương [115].

Khái niệm nghèo hiện nay còn được xây dựng dựa trên cảm nhận của chính

cộng đồng dân cư. Những nhà nghiên cứu theo hướng này như Frank Ellis và H.Ade

Freeman (2005) [134] và nhóm thảo luận Braxin của Mahmood Hasan Khan (2001)

[146] cho thấy những nhóm dân cư khác nhau có nhận thức khác nhau về nghèo.

Những nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước về Việt Nam đều dựa

trên khái niệm nghèo của các tổ chức quốc tế và vận dụng trong trường hợp của Việt

Nam như Đặng Nguyên Anh (2015) [4]. Bên cạnh đó nhiều nghiên cứu đã đưa ra

những khác biệt trong quan niệm về nghèo qua nhận thức của người dân như Công

ty Giải pháp Việt Nam và ActionAid Vietnam (2003) [53] hay Oxfarm và ActionAid

13

Việt Nam (2012) [56]. Dự án Nghèo và Môi trường thuộc Bộ Tài nguyên và Môi

trường (2009) đã thống kê nhiều quan niệm của người dân về nghèo qua Xây dựng

khả năng phục hồi: Các chiến lược thích ứng cho sinh kế ven biển chịu nhiều rủi ro

nhất do tác động của BĐKH ở miền Trung Việt Nam [10]. Qua những nghiên cứu này

có thể thấy rõ ràng là quan niệm về nghèo của người dân rất khác với quan niệm của

các nhà quản lý, thường chỉ xem xét nghèo dưới góc độ TN. Vì vậy, các nhà nghiên

cứu và hoạch định chính sách phải xuất phát từ tiếng nói của người nghèo để đưa ra

các giải pháp giảm nghèo phù hợp với nhu cầu và nguyện vọng của họ.

Trong những năm gần đây, khái niệm nghèo đa chiều đã được nhiều tổ chức,

nhiều nhà nghiên cứu tiếp cận nhằm định hướng các hoạt động hỗ trợ những đối tượng

nghèo và dễ bị tổn thương một cách toàn diện và sâu sắc hơn. Khái niệm này đã được

phát biểu trong Tuyên bố Liên hợp quốc tháng 8/2006 [dẫn theo 4], Báo cáo phát

triển Việt Nam năm 2004: Nghèo [47] của WB (2003) và đã được vận dụng trong

nhiều nghiên cứu về nghèo trên thế giới cũng như ở Việt Nam.

1.1.2.2. Về tiêu chí đánh giá nghèo

Cũng giống như định nghĩa về nghèo, các nghiên cứu đã xây dựng nhiều tiêu

chí khác nhau để đánh giá nghèo. Các nhà nghiên cứu Lorenzo Giovanni Bellù, Paolo

Liberati của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hiệp quốc (FAO, 2005) trong

Impacts of policies on poverty: The definition of poverty [145] đã trích dẫn hai cách

phân loại nghèo của Robert McNamara, nguyên giám đốc của WB là nghèo tuyệt đối

và nghèo tương đối. Theo đó, WB đã đưa ra chỉ tiêu để đo tính mức nghèo trên bình

diện toàn cầu là chuẩn nghèo quốc tế tương đương với mức nghèo tuyệt đối.

Tuy nhiên, cùng với việc được quan niệm rộng hơn thì nghèo có thể được đo

bởi các chỉ số đa chiều. Hiện nay, nhiều tổ chức quốc tế đã áp dụng khái niệm và xây

dựng các chỉ số đo lường nghèo đa chiều: HPI [122], HDI [155], và MPI [121].

Ở Việt Nam, cho đến nay hầu hết các nghiên cứu về nghèo vẫn sử dụng tiếp cận

đơn chiều, và chủ yếu dựa trên TN hoặc chi tiêu theo hai cách phân loại nghèo tuyệt

đối và nghèo tương đối. Theo tổng hợp của WB (2012), từ trước đến nay Việt Nam

sử dụng hai phương pháp tiếp cận khác nhau để đánh giá nghèo và kết quả giảm

nghèo nhưng vẫn dựa trên cơ sở TN là chủ yếu [50]. Cả hai phương pháp này được

khởi xướng từ đầu thập kỷ 90 và đã thay đổi qua thời gian:

- TCTK sử dụng hai phương pháp đo lường nghèo và theo dõi tiến độ giảm

nghèo trên cơ sở sử dụng các cuộc Điều tra mức sống hộ gia đình mang tính đại diện

cho toàn quốc: (i) Chuẩn nghèo chính thức (có điều chỉnh theo lạm phát) được áp

dụng để tính mức TN bình quân đầu người; và (ii) Chuẩn nghèo của TCTK – WB đã

được sử dụng một cách rộng rãi trong các nghiên cứu ở Việt Nam cũng như các tổ

chức quốc tế về tình hình nghèo từ năm 1993 [50].

- Phương pháp tiếp cận thứ hai được xây dựng dưới sự chủ trì của Bộ LĐ,

TB&XH, cơ quan đầu mối của Chính phủ chịu trách nhiệm về các chương trình và

chính sách giảm nghèo, là chuẩn nghèo.

14

Các nhà hoạch định chính sách Việt Nam cần xem xét nghèo với cách nhìn đa

chiều và quan tâm hơn tới ý kiến của người nghèo để đánh giá chính xác và toàn diện.

Trong những năm gần đây, một số nghiên cứu bắt đầu áp dụng cách tiếp cận nghèo

đa chiều như nghiên cứu Đánh giá nghèo đô thị ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh [114].

Tình trạng nghèo đa chiều áp dụng trong nghiên cứu này là sự tổng hợp của nhiều

khía cạnh KTXH, bao gồm cả TN và chi tiêu. Bắt đầu từ năm 2015, tiêu chí nghèo

theo cách tiếp cận đa chiều đã được chính phủ Việt Nam áp dụng nhằm đánh giá và

xác định các đối tượng nghèo.

1.1.3. Vềmối quan hê ̣giữa sinh kế và nghèo

Nghèo là một hiện tượng KTXH đa chiều, có mối quan hệ qua lại với nhiều vấn

đề khác trong đời sống KTXH của quốc gia, trong đó sinh kế là vấn đề vừa có mối

quan hệ trực tiếp, vừa có những ảnh hưởng gián tiếp. Những nghiên cứu về nghèo

của các học giả gần đây đã chú ý đến việc xem xét mối quan hệ này nhằm tìm ra

những biện pháp hiệu quả nhất giúp các quốc gia phát huy thế mạnh và giảm thiểu

rủi ro trong quá trình giảm nghèo.

Một khái niệm cần được chú ý khi đề cập đến mối quan hệ giữa sinh kế và giảm

nghèo là mục tiêu tăng trưởng vì người nghèo. Khái niệm này đặt ra bởi Kakwani và

Pernia [142], Chen Ravallion [127] để nhấn mạnh mục đích hướng tới người nghèo

của các chính sách tăng trưởng. Nghiên cứu của Rainer Klump và Thomas Bonschab

năm 2004 đã đề cập đến khái niệm này và áp dụng vào trường hợp Việt Nam [19].

Các nguồn vốn sinh kế có ảnh hưởng trực tiếp đến nghèo và điều này càng được

nhấn mạnh do tính chất xã hội của Việt Nam. Báo cáo dự án nghiên cứu được tài trợ

bởi NZAID với sự hỗ trợ của WB và SDC do các tác giả Nicholas Minot, Bob Baulch

và Michael Epprecht thực hiện vào năm 2003 đã cho thấy phần lớn sự biến động về

tỉ lệ nghèo ở nông thôn có thể được giải thích bởi các ảnh hưởng của các yếu tố khí

hậu, nông nghiệp và tiếp cận thị trường [40]. Trong khi đó, nghiên cứu của Oxfarm

và ActionAid Việt Nam (2012) lại khẳng định vai trò của di dân và những biến động

của nền kinh tế trong đánh giá biến động tỉ lệ nghèo vùng đô thị [56]. Những yếu tố

này đều là những nhân tố quan trọng của sinh kế và khung phân tích sinh kế.

Tuy nhiên, để giảm nghèo đạt được kết quả như mong muốn, phát triển sinh kế

là chưa đủ. Chương trình nghiên cứu khu vực Châu Á – Thái Bình Dương về kinh tế

học vĩ mô của giảm nghèo tại 14 nước Đông Nam Á và Nam do UNDP (2004) thực

hiện cho thấy có mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo, nhưng mức độ

chặt chẽ của mối quan hệ này rất khác nhau giữa các quốc gia và trong một quốc gia

cũng có sự khác biệt theo thời gian [110]. Mức độ này phụ thuộc vào điều kiện của

địa phương, thậm chí là khả năng tiếp cận của từng gia đình đối với các nguồn lực

cho phát triển (chính là các nguồn vốn sinh kế). Cuốn sách Chính sách và chiến lược

giảm bất bình đẳng và nghèo khổ [25] của nhóm tác giả Fréderique Sachwald, Denis

Cogneau, Jean Pierre Cling (Dương Văn Quảng dịch, 2003) đã phân tích sâu sắc mối

quan hệ giữa bất bình đẳng và nghèo khổ và chỉ ra rằng đây là điểm hạn chế của các

15

sáng kiến quốc tế trong việc giảm nghèo. Chính vì vậy cần chú ý đến việc giảm bất

bình đẳng khi hoạch định những chính sách và chiến lược phát triển sinh kế mới.

Nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học của SDC (2007) [153], SIDA

(2001) [150] đều khẳng định tiếp câṇ sinh kế chính là môṭ hướng tiếp câṇ mớ

i và

tương đối toàn diêṇ cả cho viêc̣ nghiên cứu nghèo và các chính sách giảm nghèo.

Stephen Morse (2009) trong Sustainable livelihood approach: A critical analysis of

theory and practice [151] coi đây là một hướng tiếp cận có thể được áp dụng trong

nhiều trường hợp thực tiễn.

Ellis (2000) đã nhấn mạnh mối quan hệ giữa cơ hội sinh kế và việc cải thiện

tình trạng nghèo của người dân, đồng thời đề cao vai trò của thể chế, chính sách, các

mối liên hệ và hỗ trợ xã hội đối với cải thiện sinh kế và giảm nghèo. Nghiên cứu

khẳng định sự bền vững của sinh kế cộng đồng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như khả

năng tiếp cận vốn, trình độ lao động, các mối quan hệ trong cộng đồng và chính sách

phát triển. Đây chính là các nguồn lực quan trọng trong quá trình giảm nghèo [133].

Nhiều nghiên cứu không chỉ dừng lại ở việc phân tích những tác động của các

yếu tố và chính sách phát triển sinh kế đối với nghèo mà đã đi sâu vào những đặc

điểm của người nghèo (chính là các nguồn vốn sinh kế và khả năng tiếp cận sinh kế)

để lý giải và tìm lối ra cho các chính sách giảm nghèo. Những nghiên cứu về các

trường hợp nghèo cụ thể trên thế giới tại Ấn Độ năm 2002 của Anirudh Krishna [5],

nghiên cứu thực địa của Otsuka và các đồng sự năm 2009 [141] đều cho thấy mối

quan hệ giữa các yếu tố của nguồn vốn sinh kế như điều kiện học vấn, nghề nghiệp,

sở hữu đất đai… và vấn đề giảm nghèo. Trong điều kiện BĐKH đang diễn ra trên

phạm vi toàn cầu và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến khu vực ven biển, nhiều nghiên cứu

đã tập trung vào nghiên cứu mối quan hệ giữa BĐKH, sinh kế và giảm nghèo, tiêu

biểu là công trình do IUCN và IISD phối hợp thực hiện năm 2003 [138].

Nhìn chung những nghiên cứu vềsinh kếhiêṇ nay đều gắn chăṭ vớ

i ngườ

i nghèo

vàmuc̣ tiêu chính của các nghiên cứu là

tâp̣ trung vào các khuyến nghi,̣ các giải pháp

để đa daṇ g hóa sinh kế, phá

t triển SKBV giúp ngườ

i nghèo cải thiêṇ cuôc̣ sống. Kết

quả nghiên cứu của Frank Ellis (2005) đãchỉ ra rằng nên tâp̣ trung tác đôṇ g và cải

thiêṇ các nguồn lưc̣ sinh kế sẽgiúp cho ngườ

i nghèo có khả năng hôị nhâp̣ vớ

i thi ̣

trường và phá

t triển SKBV [134].

Các nhà nghiên cứu ở Việt Nam chủ yếu phân tích tác động của sinh kế đến

nghèo và tập trung vào hai vấn đề chính: sinh kế như là một chiến lược giảm nghèo

và việc đảm bảo bình đẳng trong phân bổ các kết quả sinh kế.

Nghiên cứu theo hướng đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng được

Nhóm hành động chống nghèo thực hiện năm 2003 ở 12 tỉnh của Việt Nam với sự tài

trợ của nhiều tổ chức quốc tế. Các nghiên cứu ở các khu vực khác nhau đều chỉ ra

rằng, dù có sự khác biệt về điều kiện địa lý, người nghèo có những đặc điểm chung

là thiếu vốn, thiếu việc làm, thiếu đất canh tác, trình độ văn hóa và tay nghề thấp [37].

Bên cạnh đó, họ cũng dễ bị tổn thương bởi điều kiện tự nhiên khắc nghiệt hay những

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!