Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên Cứu Nguồn Tài Nguyên Cây Thuốc Được Đồng Bào Dân Tộc H Mông Sử Dụng Tại Khu Bảo Tồn Thiên Nhiên Hoàng Liên Văn Bàn Tỉnh Lào Cai
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP HÀ NỘI
TRẦN VĂN HẢI
NGHIÊN CỨU TÀI NGUYÊN CÂY THUỐC ĐƯỢC ĐỒNG BÀO DÂN
TỘC H’MÔNG SỬ DỤNG TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN HOÀNG
LIÊN – VĂN BÀN, TỈNH LÀO CAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
HÀ NỘI - 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP HÀ NỘI
TRẦN VĂN HẢI
NGHIÊN CỨU NGUỒN TÀI NGUYÊN CÂY THUỐC ĐƯỢC ĐỒNG BÀO
DÂN TỘC H’MÔNG SỬ DỤNG TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN
HOÀNG LIÊN – VĂN BÀN, TỈNH SƠN LA
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN RỪNG
MÃ SỐ: 60.62.68
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐỖ THỊ XUYẾN
HÀ NỘI – 2011
1
MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống ngày nay khi mà khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển
những vấn đề về sức khỏe con người ngày càng được quan tâm hơn bao giờ hết.
Khoa học ngày càng phát triển, nhận thức của con người ngày càng được tăng lên,
càng muốn hướng tới một cuộc sống mà ở đó có sự phát triển bền vững. Những sản
phẩm được con người ưu tiên sử dụng là những sản phẩm có nguồn gốc từ tự nhiên.
Việt Nam là nước có truyền thống lịch sử lâu dài với hơn bốn nghìn năm
dựng nước, giữ nước, xây dựng và phát triển. Trong thời gian dựng nước và giữ
nước đó rất nhiều những bài học, kinh nghiệm dân gian đã được người dân đúc rút
thành những kinh nghiệm và truyền từ đời này qua đời khác. Một trong những sản
phẩm bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của con người được người dân hết sức quan tâm
đó là việc sử dụng những cây cỏ làm thuốc để chữa bệnh. Từ thủa xa xưa cho đến
ngày nay đồng bào các dân tộc anh em trên đất nước ta đã không ngừng tìm tòi
nghiên cứu, sử dụng nguồn tài nguyên cây thuốc chữa bệnh. Cùng với kinh nghiệm
cổ truyền của dân tộc, sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã minh chứng cơ sở
khoa học của những cây thuốc qua thành phần hóa học, tác dụng kháng khuẩn …
chúng ta càng thấy rõ tác dụng của nó. Các cây thuốc phân bố rộng và đa dạng, số
loài cây thuốc được ghi nhận vào năm 2007 là 3948 loài trong hệ thực vật Việt
Nam[17]. Bên cạnh đó cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội một cách nhanh
chóng thì chúng ta đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn khi môi trường ngày
càng ô nhiễm, thiên tai xảy ra liên tiếp cùng với nó là sự xuất hiện của nhiều loại
bệnh tật mới mà thuốc tây vẫn chưa có thuốc đặc trị. Vì vậy, ngày nay tất cả các
nước trên thế giới đang hết sức quan tâm tới việc sử dụng hiệu quả nguồn tài
nguyên cây thuốc.
Cũng như nhiều Khu bảo tồn thiên nhiên và Vườn quốc gia khác trong nước,
Khu bảo tồn thiên thiên Hoàng Liên – Văn Bàn, tỉnh Lào Cai có hệ thực vật nói
chung, tài nguyên cây thuốc nói riêng đang bị suy giảm cả về số lượng cũng như
chất lượng [41]. Tại Khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên – Văn Bàn cho đến nay
các công trình nghiên cứu về cây thuốc vẫn chưa được quan tâm và chú ý nhiều.
Xuất phát từ vấn đề trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu tài nguyên
cây thuốc của đồng bào dân tộc H’Mông ở khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng LiênVăn Bàn, tỉnh Lào Cai làm cơ sở cho công tác bảo tồn” để hoàn thiện nghiên cứu
khóa luận tốt nghiệp của mình.
2
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở một số nước trên thế giới
Ngay từ khi loài người xuất hiện, con người đã biết sử dụng các loài thực vật
để phục vụ cuộc sống của mình như cây làm thức ăn, nhà ở, cây làm thuốc, đầu độc
chim, thú…Từ những kinh nghiệm đó, dần dần hình thành một khoa học gọi là
Thực vật dân tộc học. Khoa học này nghiên cứu các mối quan hệ giữa các dân tộc
khác nhau với các loài cây cỏ phục vụ cho cuộc sống của họ. Mỗi quốc gia đều có
những nền y học cổ truyền riêng, đặc biệt trong đó có những kinh nghiệm tìm kiếm
và sử dụng những cây thuốc để phòng và trị bệnh ở người, vật nuôi. Những ghi
chép đầu tiên về cây thuốc được tìm thấy cách đây hơn 5 ngàn năm, đó là những nét
khắc trên đất sét của người Sumeria, thuộc Mesopotamia cổ xưa (là Irắc ngày nay),
đề cập đến sử dụng cây carum và cây húng tây. Cũng thời gian này, kinh nghiệm sử
dụng cây thuốc cũng bắt đầu hình thành và phát triển ở Trung Quốc và Ấn Độ. Tuy
nhiên, nhiều bằng chứng khảo cổ học cho thấy kinh nghiệm sử dụng cây thuốc xuất
hiện từ rất lâu đời. Rễ của cây Thục Quỳ (Althea officinalis), cây Lan Dạ Hương
(Hyacinthus sp) và cây Cỏ thi (Achillea millefolium) được cất giữ quanh bộ xương
người có niên đại vào thời kỳ đồ đá ở Irắc. Cho đến nay giá trị làm thuốc của ba loài
thực vật kể trên vẫn được thừa nhận. Điều này cho thấy, trên thực tế, thực vật được
dùng làm thuốc xuất hiện trước khi có sự ghi chép của sử sách.
Sử dụng cây thuốc được các quốc gia trên thế giới tiến hành ở các mức độ
khác nhau tùy thuộc vào sự phát triển của dân tộc đó. Trung Quốc là một trong
những quốc gia có nền y học cổ truyền rất phát triển. Trong cuốn sách “Thần Nông
bản thảo”, 365 vị thuốc có giá trị đã được Vua Thần Nông (3320 – 3080 trước Công
nguyên) thống kê lại. Trong đó, nhiều bài thuốc vẫn được sử dụng cho tới ngày nay
như cây Gai mèo (Cannabis sp) để chống nôn, cây Đại Phong Tử (Hydnocarpus
kurzii) làm thuốc chữa bệnh phong. Vào thời Tam Quốc, danh y Hoa Đà, sử dụng
Đàn hương, Tử đinh hương để chế hương nang (túi thơm) để phòng chống và chữa
trị bệnh lao phổi và bệnh lỵ. Ông còn dùng hoa Cúc, Kim ngân phơi khô cho vào
chiếc gối (hương chẩm) để điều trị chứng đau đầu, mất ngủ, cao huyết áp. Từ thời
3
nhà Hán (năm 168 trước Công nguyên) trong cuốn sách “Thủ hậu bị cấp phương”
tác giả đã kê 52 đơn thuốc chữa bệnh từ các loại cây cỏ. Giữa thế kỷ XVI, Lý Thời
Trân đã thống kê 12.000 vị thuốc trong tập “Bản thảo cương mục”.
Ở Ấn Độ, nền y học cổ truyền được hình thành cách đây hơn 3000 năm. Chủ
trương của người Ấn là ngừa bệnh là chính, nếu phải điều trị bệnh thì các liệu pháp
tự nhiên chủ yếu thông qua thực phẩm và thảo mộc sẽ giúp loại bỏ gốc rễ căn bệnh.
Bộ sử thi Vedas được viết vào năm 1.500 TCN và cuốn Charaka samhita được các
thầy thuốc Charaka bổ sung tiếp vào bộ sử thi Vedas, trình bày cụ thể 350 loài thảo
dược. Ấn Độ là quốc gia rất phát triển về nghiên cứu thảo dược như tổng hợp chất
hữu cơ, tách chiết chứng minh cấu trúc, sàng lọc sinh học, thử nghiệm độc tính, và
nghiên cứu tác dụng hóa học của các chất tới cơ thể con người. Hiện nay, chính phủ
khuyến khích sử dụng công nghệ cao trong trồng cây thuốc. Hầu hết các viện
nghiên cứu dược của Ấn Độ đã tham gia vào nghiên cứu chuyển hóa các loại thuốc
và hợp chất có hoạt tính từ thực vật.
Những hiểu biết về thảo mộc của người Hy Lạp và Roma gắn liền với nền văn
minh phát triển từ rất sớm của họ. Người Hy Lạp cổ xưa chịu ảnh hưởng của người
Babylon, Ai Cập, Ấn Độ. Hippocrat (460 – 377 TCN) là thầy thuốc nổi tiếng người
Hy Lạp được mệnh danh là cha đẻ của y học hiện đại khi ông là người đưa ra quan
niệm “Hãy để thức ăn của bạn là thuốc và thuốc chính là thức ăn của bạn”.
Ở Châu Âu, vào thời Trung cổ, các kiến thức về cây thuốc chủ yếu được các
thầy tu sưu tầm và nghiên cứu. Họ trồng cây thuốc và dịch các tài liệu về thảo mộc
bằng tiếng Ả rập. Vào năm 1649, Nicolas Culpeper đã viết cuốn sách “A Physical
Directory”, sau đó vài năm, ông lại xuất bản cuốn “The English Physician”. Đây là
cuốn dược điển có giá trị và là một trong những cuốn sách hướng dẫn đầu tiên dành
cho nhiều đối tượng sử dụng, người không chuyên có thể sử dụng để làm cẩm nang
chăm sóc sức khỏe. Cho đến nay, cuốn sách này vẫn được tham khảo và trích dẫn
rộng rãi.
Thầy lang và những bài thuốc cổ truyền từ thực vật đóng vai trò quan trọng
đối với sức khỏe của hàng triệu người. Tỷ lệ người làm nghề thuốc cổ truyền và các
bác sĩ được đào tạo ở các trường Đại học có liên quan tới toàn bộ dân số của các
4
nước châu Phi. Ước tính số lượng thầy lang ở Tanzanmia có khoảng 30.000 –
40.000 người, trong đó, bác sĩ làm nghề y chỉ có khoảng 600 người. Tương tự ở
Malawi có khoảng gần 20.000 người làm nghề thuốc cổ truyền nhưng số lượng bác
sĩ rất ít. Nền y học cổ truyền ở các quốc gia Châu Phi có ảnh hưởng lớn đến sức
khỏe cộng đồng.
Cùng với phương thức chữa bệnh theo kinh nghiệm dân gian, các nhà khoa
học trên thế giới tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu cơ chế và các hợp chất hóa học
trong cây có tác dụng chữa bệnh, đúc rút thành những cuốn sách có giá trị. Các nhà
khoa học công nhận rằng hầu hết các cây cỏ đều có tính kháng sinh, đó là khả năng
miễn dịch tự nhiên của thực vật. Tác dụng kháng khuẩn do các hợp chất tự nhiên có
mặt phổ biến trong thực vật như phenolic, antoxy, các dẫn xuất quino, ancaloid,
flavonoid, saponin, … Cho đến nay, nhiều hợp chất tự nhiên đã được giải mã về cấu
trúc, những hợp chất này được chiết xuất từ cây cỏ để làm thuốc. Dựa vào cấu trúc
được giải mã, người ta có thể tổng hợp nên các chất nhân tạo để chữa bệnh. Gotthall
(1950) đã phân lập được chất Glucosid barbaloid từ cây Lô hội (Aloe vera), chất
này có tác dụng với vi khuẩn lao ở người và vi khuẩn Baccilus subtilis. Lucas và
Lewis (1994) đã chiết xuất một hoạt chất có tác dụng với các loài vi khuẩn gây bệnh
tả, lị, mụn nhọt từ Kim ngân (Lonicera sp). Từ cây Hoàng Liên (Coptis teeta),
người ta đã chiết xuất được berberin. Trong lá và rễ cây Hẹ (Allium odorum) có các
hợp chất sulfua, sapoin và chất đắng. Năm 1948, Shen-Chi-Shen phân lập được một
hoạt chất Odorin ít độc đối với động vật bậc cao nhưng lại có tác dụng kháng
khuẩn. Hạt của cây Hẹ cũng có chứa chất Alcaloid có tác dụng kháng khuẩn gram+
và gram-, nấm. Reserpin và Serpentin là chất hạ huyết áp được chiết xuất từ cây Ba
gạc (Rauvolfa spp.). Đặc biệt, Vinblastin và Vincristin vừa có tác dụng hạ huyết áp
vừa có tác dụng làm thuốc chống ung thư, được chiết xuất từ cây Dừa cạn. Digitalin
được chiết xuất từ cây Dương địa hoàng (Digitalis spp.), strophatin được chiết xuất
từ cây Sừng dê (Strophanthus spp) để làm thuốc trợ tim. Từ những thành tựu nghiên
cứu cấu trúc, hoạt tính của các hợp chất tự nhiên, nhiều loại thuốc có tác dụng chữa
bệnh cao đã ra đời bằng tổng hợp hoặc bán tổng hợp.
5
Dược lý hiện đại chủ yếu tập trung vào các hợp chất tự nhiên có hoạt tính chữa
bệnh trong khi các nhà nghiên cứu về thảo mộc cho rằng tác dụng chữa bệnh của
cây thuốc là do sự kết hợp của nhiều thành phần có trong cây thuốc. Chẳng hạn như
chất khoáng, vitamin, tinh dầum glycosid và nhiều chất khác đóng vai trò quan
trọng trong việc tăng cường hoặc hỗ trợ các đặc tính chữa bệnh của cây thuốc, bảo
vệ cơ thể của các tác nhân gây độc. Trong khi đó, các hợ chất được phân lập và tổng
hợn có khả năng chữa bệnh hiệu quả nhưng vì thiếu đi các hợp chất tự nhiên khác
nên chúng có khả năng gây độc đối với cơ thể. Trước đây, việc sử dụng thảo dược
để chữa bệnh thường bị hiểu lầm với phép thuật và mê tín dị đoan. Ngày nay, khoa
học hiện đại đã chứng minh được khả năng chữa bệnh của thảo mộc. Vì vậy, thế
giới ngày càng quan tâm tới cây thuốc cũng như phương pháp chữa bệnh bằng y
học cổ truyền.
Theo thống kê của tổ chức Y tế thế giới (WHO), có trên 20.000 loài thực vật
bậc cao có mạch và ngành thực vật bậc thấp được sử dụng trực tiếp làm thuốc hoặc
cung cấp các hoạt chất tự nhiên để làm thuốc. Trong đó, vùng nhiệt đới Châu Mỹ có
hơn 1.900 loài, vùng nhiệt đới Châu Á có khoảng 6.500 loài thực vật có hoa được
dùng làm thuốc. Mức độ sử dụng thuốc thảo dược ngày càng cao.
Khoảng 80% dân số ở các quốc gia đang phát triển sử dụng các phương pháp y
học cổ truyền để chăm sóc sức khỏe, trong đó chủ yếu là cây cỏ. Trung Quốc là
nước đông dân nhất thế giới, có nền y học dân tộc phát triển nên trong số cây thuốc
đã biết hiện nay có tới 80% số loài (khoảng trên 4.000 loài) là được sử dụng theo
kinh nghiệm cổ truyền của các dân tộc ở đất nước này. Ở Ghana, Mali, Nigeria và
Zambia, 60% trẻ em có triệu chứng sốt rét ban đầu được điều trị tại chỗ bằng thảo
dược. Tỷ lệ dân số tin tưởng vào hiệu quả sử dụng thảo dược và các biện pháp chữa
bệnh bằng y học cổ truyền cũng đang tăng nhanh ở các quốc gia phát triển. Ở Châu
Âu, Bắc Mỹ, và một số nước khác, ít nhất 50% dân số sử dụng thực phẩm bổ sung
hay thuốc thay thế từ thảo mộc. Ở Đức, 90% dân số sử dụng các phương thuốc có
nguồn gốc thiên nhiên để chăm sóc sức khỏe. Ở Anh, chi phí hàng năm cho các loại
thuốc thay thế từ thảo mộc là 230 triệu đôla.