Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

nghiên cứu giá trị của protein phản ứng c và interleukin 6 trong đánh giá mức độ nặng nhẹ của viêm
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm tụy cấp là một bệnh cấp tính thường gặp trên lâm sàng, tỷ lệ bệnh là
5,4- 79,8/100.000 dân. Bệnh có xu hướng ngày càng tăng, lý do chưa rõ nhưng
có thể liên quan đến sự gia tăng sử dụng rượu và khả năng chẩn đoán bệnh ngày
càng được nâng cao [14], [21], [82].
Viêm tụy cấp là một bệnh có diễn biến phức tạp, khó đoán trước và có thể
gây nhiều biến chứng nguy hiểm, tỷ lệ tử vong cao trong trường hợp nặng. Theo
các thống kê mới nhất, khoảng 85% các bệnh nhân viêm tụy cấp thuộc loại viêm
tụy kẽ (phù tụy) và 15% là viêm tụy cấp hoại tử, trong đó có khoảng 33% bệnh
nhân viêm tụy cấp hoại tử có nhiễm trùng hoại tử. Tỷ lệ tử vong của viêm tụy
cấp khoảng 5% (2- 9%, tùy từng nghiên cứu); tỷ lệ này là 3% (1- 7%) trong viêm
tụy kẽ và tăng tới khoảng 17% (8- 39%) đối với viêm tụy cấp hoại tử (12% ở
viêm tụy cấp hoại tử vô trùng và 30% đối với viêm tụy cấp hoại tử nhiễm trùng).
Các bệnh nhân viêm tụy cấp không có biến chứng suy tạng có tỷ lệ tử vong là
0%, và là 3% nếu có suy một tạng, tỷ lệ tử vong tới 47% (28- 69%, tùy từng
nghiên cứu) đối với bệnh nhân có suy đa tạng [21].
Trong thực hành lâm sàng, sau khi chẩn đoán viêm tụy cấp được khẳng
định, việc đánh giá về mức độ bệnh trong thời gian sớm nhất sẽ có lợi ích rất lớn,
nó quyết định việc lựa chọn cách thức điều trị thích hợp, từ đó có thể ngăn chặn
sự phát triển của các biến chứng và làm giảm tỷ lệ tử vong. Tuy nhiên, các biện
pháp điều trị chỉ thực sự có hiệu quả khi được tiến hành sớm trong vòng 24- 48
giờ kể từ khi bệnh bắt đầu [76], [125].
Có nhiều phương pháp đã được sử dụng để đánh giá mức độ nặng nhẹ và
tiên lượng của viêm tụy cấp như đánh giá dựa vào lâm sàng, dựa vào các bảng
điểm Ranson, Imrie (Glasgow), APACHE và dựa vào chụp cắt lớp vi tính. Tuy
nhiên, không có phương pháp nào trên đây có khả năng xác định mức độ và tiên
lượng của viêm tụy cấp một cách chính xác ngay trong giai đoạn sớm của bệnh.
1
Hiện nay, vấn đề dự báo sớm (tiên lượng) mức độ nặng nhẹ của viêm tụy
cấp vẫn đang còn nhiều tranh cãi trên phạm vi toàn thế giới, nhất là việc lựa
chọn phương pháp áp dụng.
Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy, ở các bệnh nhân viêm tụy cấp, mức
độ tăng nồng độ các cytokine trong máu có liên quan với sự phát triển của các
biến chứng như suy tạng, hoại tử, nhiễm trùng. Trên cơ sở đó, đã có một số xét
nghiệm được sử dụng để đánh giá mức độ nặng nhẹ của viêm tụy cấp, hiện nay
xét nghiệm định lượng Protein phản ứng C (CRP) được coi là xét nghiệm tiêu
chuẩn và Interleukin- 6 là xét nghiệm được cho là có nhiều hứa hẹn nhất trong
tương lai gần [37], [122], [125], [134].
ở Việt Nam, việc xác định mức độ nặng nhẹ của viêm tụy cấp chủ yếu dựa
vào đánh giá lâm sàng và một số xét nghiệm cổ điển. Để hiểu rõ hơn về bệnh và
nghiên cứu lựa chọn phương pháp xác định mức độ nặng nhẹ của viêm tụy cấp
phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu
giá trị của Protein phản ứng C và Interleukin- 6 trong đánh giá mức độ
nặng nhẹ của viêm tụy cấp” nhằm 2 mục tiêu sau:
1. Khảo sát mối liên quan của nồng độ Protein phản ứng C và
Interleukin- 6 huyết thanh với tình trạng nặng nhẹ của viêm tụy cấp.
2. Đối chiếu giá trị của Protein phản ứng C và Interleukin- 6 huyết thanh
với lâm sàng và một số chỉ tiêu cận lâm sàng trong đánh giá mức độ nặng nhẹ
của viêm tụy cấp.
2
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ VÀ TIÊN LƯỢNG CỦA VIÊM TỤY CẤP
Việc sớm nhận biết được các trường hợp viêm tụy cấp nặng có ý nghĩa
quan trọng, quyết định thái độ điều trị thích hợp, dự phòng rối loạn chức năng
các tạng và các biến chứng tại chỗ từ đó làm giảm tỷ lệ tử vong.
Trong những năm gần đây đã có nhiều tiến bộ trong điều trị viêm tụy cấp
nặng. Các biện pháp này phải được thiết lập ở giai đoạn rất sớm của bệnh, cơ hội
thành công sẽ giảm đi nhanh chóng theo thời gian (hình 1.1). Hơn nữa, tất cả các
biện pháp này đều đòi hỏi chi phí rất lớn và không phải là không kèm theo các
biến chứng do điều trị. Lợi ích lớn nhất của việc xác định sớm mức độ của viêm
tụy cấp là điều này sẽ giúp một số lượng rất lớn các bệnh nhân viêm tụy cấp
được xác định là thể nhẹ tránh được gánh nặng rất lớn về tài chính cũng như về
thể xác và tinh thần khi phải theo đuổi các điều trị không cần thiết [69], [141].
Có rất nhiều phương pháp được đưa ra và áp dụng để đánh giá mức độ
nặng nhẹ và tiên lượng của viêm tụy cấp, nhưng cho đến nay chưa có phương
pháp nào tỏ ra tối ưu và đây là vấn đề còn nhiều tranh cãi. Có thể chia các
phương pháp tiên lượng viêm tụy cấp thành 6 loại sau: [141]
1. Đánh giá dựa vào lâm sàng.
2. Dựa vào các xét nghiệm liên quan đến mức độ của phản ứng viêm như
yếu tố hoại tử u alpha (TNFα), IL-6, IL-8 và protein phản ứng C (CRP) …
3. Dựa vào các xét nghiệm liên quan đến những sản phẩm được giải
phóng bởi tụy như peptide hoạt hóa trypsinogen (TAP) trong huyết thanh và
nước tiểu…
4. Dùng các bảng tính điểm như Ranson, Imrie (Glasgow), APACHE II…
5. Dựa vào chụp cắt lớp vi tính.
6. Dựa vào một số phương pháp khác.
3
Hình 1.1: Cửa sổ điều trị trong viêm tụy cấp [125]
1.1.1. Đánh giá dựa vào lâm sàng
Việc sớm xác định một trường hợp viêm tụy cấp thể nặng dựa vào khám
lâm sàng là công việc khó khăn và không đủ độ tin cậy. Các biểu hiện lâm sàng
như nhịp tim nhanh, tụt huyết áp tư thế, sốc, suy hô hấp, và biểu hiện viêm phúc
mạc thường gặp trong trường hợp viêm tụy cấp nặng; tuy nhiên, do không đặc
hiệu và thường xuất hiện muộn nên giá trị của chúng bị hạn chế . Các dấu hiệu
Grey- Turner và Cullen có vẻ đặc hiệu hơn, kết hợp với tỷ lệ tử vong 37%. Các
dấu hiệu này thường xuất hiện ở 48- 72 giờ kể từ khi bệnh bắt đầu, nhưng đây là
dấu hiệu hiếm gặp trên lâm sàng.
Béo phì (BMI > 30 kg/m2) có liên quan đến tăng nguy cơ phát triển các
biến chứng hệ thống và tại chỗ, tỷ lệ tử vong cũng cao hơn, vì thế chỉ số này cần
được lưu ý trong đánh giá mức độ của viêm tụy cấp.
Khả năng các bác sỹ trong việc tiên lượng viêm tụy cấp nặng ngay từ khi
bệnh nhân vào viện được cho là rất kém. Các nghiên cứu cho thấy, ở thời điểm
bệnh nhân vào viện, các bác sỹ có kinh nghiệm cũng chỉ xác định được chính
xác 34- 39% các trường hợp viêm tụy cấp nặng, và chỉ có 80% các trường hợp
4
được xác định ban đầu là viêm tụy cấp nhẹ được chứng minh là không có biến
chứng. Như vậy, đánh giá lâm sàng đã bỏ sót tới 2/3 các trường hợp viêm tụy
cấp nặng [32], [162].
1.1.2. Đánh giá dựa vào các marker viêm
Yếu tố hoại tử u- alpha (TNF-α)
TNFα là một cytokine có nguồn gốc chủ yếu từ các đại thực bào và có vai
trò quan trọng trong cơ chế đáp ứng của các cơ quan trong cơ thể với các tổn
thương và nhiễm trùng. TNFα có thời gian bán hủy rất ngắn (khoảng 14- 18 phút),
do đó việc xác định nồng độ TNFα rất khó và không phản ánh đúng tình trạng
viêm thực sự của bệnh nhân. Một số nghiên cứu cho thấy, chỉ có khoảng 29,3-
36% các bệnh nhân viêm tụy cấp có tăng nồng độ TNFα [26], [43]. ở các bệnh
nhân viêm tụy cấp sau ERCP, trong khi có sự tăng rõ rệt nồng độ các interleukin
(đặc biệt là IL-6) thì nồng độ TNFα trong huyết thanh không thay đổi [107]. Tuy
nhiên, một số nghiên cứu lại cho thấy có sự tăng nồng độ TNFα ở bệnh nhân viêm
tụy cấp, và có sự khác biệt về TNFα ở nhóm viêm tụy cấp nhẹ so với nhóm viêm
tụy cấp nặng [4], [38], [130].
Interleukin- 6 (IL-6)
IL-6 là một cytokine được giải phóng bởi nhiều loại tế bào, nó đóng vai
trò chất trung gian chủ chốt của quá trình tổng hợp các protein giai đoạn cấp
trong đó có CRP, fibrinogen. Trong những năm gần đây, có rất nhiều nghiên cứu
tập trung vào xác định vai trò của IL-6 trong đánh giá mức độ và tiên lượng của
viêm tụy cấp. Kết quả các nghiên cứu đều thống nhất cho rằng nồng độ IL-6 liên
quan chặt chẽ với mức độ của viêm tụy cấp trên lâm sàng. ở hầu hết các trường
hợp viêm tụy cấp nhẹ, nồng độ IL-6 trong huyết thanh ở mức không thể phát
hiện được, sự tăng cao nồng độ IL-6 là dấu hiệu dự báo sự phát triển các biến
chứng tại chỗ hoặc biến chứng suy tạng ở bệnh nhân viêm tụy cấp [43], [71],
[98], [106], [143]. Các nghiên cứu lâm sàng cho thấy, xét nghiệm IL-6 là một
trong những phương pháp tốt nhất có thể giúp phân biệt các trường hợp viêm tụy
5
cấp nặng với thể nhẹ ngay từ ngày đầu của bệnh với độ nhạy 82- 100%, độ đặc
hiệu 71- 91% và tỷ lệ chẩn đoán chính xác đạt 80-94% [38], [62], [74], [106],
[127], [143], [153]. Vấn đề hiện nay là việc định lượng IL-6 vẫn chưa thể làm
bằng máy tự động hoàn toàn, mặc dù có thể định lượng IL-6 bằng phương pháp
bán tự động nhưng KIT xét nghiệm IL-6 vẫn chưa sẵn có tại các phòng xét
nghiệm lâm sàng.
Interleukin- 8
Các nghiên cứu về viêm tụy cấp ở người cho thấy, cùng với các cytokine
khác, nồng độ IL-8 tăng cao ngay trong những ngày đầu của bệnh. Mức độ tăng
IL-8 liên quan có ý nghĩa với mức độ của viêm tụy cấp, các nghiên cứu cũng cho
thấy, IL-8 có khả năng tiên lượng viêm tụy cấp có biến chứng tốt hơn so với
CRP [23], [154]. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu mới đây người ta thấy, chỉ có
IL-6 có khả năng tiên lượng chính xác các trường hợp viêm tụy cấp nặng, còn
với IL-8 và IL-10 thì không [153].
Interleukin- 10
Interleukin-10 là một cytokine chống viêm quan trọng nhất được sản xuất
bởi các tế bào T, tế bào B, tế bào đơn nhân và các đại thực bào. IL-10 có khả
năng ức chế sự giải phóng và chức năng của các cytokine viêm chủ chốt như IL1, TNFα, IL-6 và IL-8 [85], [117].
Các nghiên cứu lâm sàng cho thấy, cùng với các cytokine viêm khác,
nồng độ IL-10 tăng có ý nghĩa ngay trong những ngày đầu tiên của bệnh sau đó
giảm nhanh ở các bệnh nhân viêm tụy cấp nhẹ trong khi vẫn tăng cao dai dẳng
trong những ngày sau trong nhóm viêm tụy cấp nặng, đặc biệt ở các bệnh nhân
tử vong [23], [26], [65]. Mặc dù nồng độ của cả IL-6 và IL-10 đều tăng và mức
tăng đó tương quan với mức độ của bệnh, tỷ lệ IL-10/IL-6 thường thấp hơn ở
nhóm viêm tụy cấp nặng so với nhóm nhẹ, sự tăng tương đối của nồng độ IL-10
so với IL-6 kết hợp với cải thiện tiên lượng bệnh, đặc biệt ở các bệnh nhân được
6
điều trị sớm bằng truyền liên tục thuốc ức chế protease và kháng sinh vào động
mạch vùng [116], [149].
Protein phản ứng C (CRP)
Protein phản ứng C là một protein pha cấp được tổng hợp bởi các tế bào
gan dưới tác dụng kích thích chủ yếu của IL-6. Một nghiên cứu lớn trên 1050
bệnh nhân đã cho thấy, có rất ít khả năng xảy ra viêm tụy cấp nặng đe dọa cuộc
sống ở bệnh nhân có số lượng bạch cầu và nồng độ CRP lúc vào viện trong giới
hạn bình thường [64].
CRP là xét nghiệm đang được sử dụng rộng rãi nhất trong tiên lượng viêm
tụy cấp. Mức cut-off trong khoảng 120- 210 mg/L được dùng để phân biệt giữa
thể nặng và thể nhẹ của bệnh với độ nhạy 57-94,1%, độ đặc hiệu 60-89,1% và tỷ
lệ chính xác khoảng 76-84% [18], [22], [74], [90], [103], [126], [154].
Hiện nay, CRP là xét nghiệm đang được khuyến cáo là xét nghiệm chuẩn
trong đánh giá mức độ và tiên lượng của viêm tụy cấp với mức cut- off được đề
nghị là > 150 mg/L [17], [69], [76], [134], [160].
Elastase bạch cầu đa nhân trung tính (PMN elastase)
Trong viêm tụy cấp nặng, bạch cầu trung tính tập trung nhiều ở tụy và sản
xuất men elastase, là một yếu tố chính tham gia quá trình hoại tử tụy. Các nghiên
cứu nhận thấy, PMN elastase có khả năng tương tự CRP trong đánh giá tiên
lượng của viêm tụy cấp, nhưng có ưu thế là nồng độ đỉnh của PMN elastase xuất
hiện sớm hơn, ngay trong ngày đầu của bệnh [48], [90].
Procalcitonin
PCT được coi là một marker sớm của nhiễm trùng nặng và hội chứng đáp
ứng viêm hệ thống. Đã có rất nhiều nghiên cứu về vai trò của PCT trong viêm tụy
cấp, tuy nhiên giá trị của nó vẫn đang còn nhiều tranh cãi. Kết quả một số nghiên
cứu nhận thấy PCT là một marker hữu ích giúp phát hiện sớm các bệnh nhân viêm
tụy cấp nặng [28], [129]. Một số nghiên cứu khác lại thấy PCT không phải là một
marker tin cậy trong tiên lượng sớm mức độ của viêm tụy cấp [108], [145].
7
1.1.3. Các sản phẩm được giải phóng bởi tụy
Amylase và lipase
Mặc dù amylase và lipase có vai trò quan trọng trong chẩn đoán xác định
viêm tụy cấp, nhưng chúng đều rất ít liên quan với mức độ và tiên lượng của
viêm tụy cấp [82], [101], [162], [173].
Peptide hoạt hóa trypsinogen (TAP)
TAP là một peptide được giải phóng trong quá trình hoạt hóa trypsinogen
thành trypsin. Trong viêm tụy cấp, sự hoạt hóa không thích hợp của trypsinogen
xảy ra ngay bên trong tụy dẫn đến sự giải phóng của TAP vào máu, nước tiểu. Vì
thế, TAP dường như là marker tốt nhất và sớm nhất của viêm tụy cấp. Vì TAP
nhanh chóng được tiết vào trong nước tiểu, phát hiện TAP trong nước tiểu dễ
hơn trong huyết thanh, nên xét nghiệm này hiện đã sẵn có và dễ dàng áp dụng
vào lâm sàng [55].
Tuy nhiên các nghiên cứu lâm sàng lại thu được kết quả trái ngược nhau.
Một số nghiên cứu nhận thấy xét nghiệm TAP niệu đã tiên lượng khá chính xác
mức độ của viêm tụy cấp ngay trong ngày đầu tiên của bệnh [78], [94]. Trong
khi đó, trong nghiên cứu mới đây của Saez, nồng độ TAP niệu của nhóm bệnh
nhân viêm tụy cấp và các bệnh nhân đau bụng cấp không do tụy không có sự
khác biệt, và các tác giả kết luận không thể dùng TAP làm xét nghiệm sàng lọc
trong chẩn đoán bệnh viêm tụy cấp [139]. Định lượng TAP trong huyết thanh
cũng được nhận thấy không đủ tin cậy trong chẩn đoán cũng như tiên lượng mức
độ của viêm tụy cấp vì độ nhạy của phương pháp quá thấp (<30%) [128].
1.1.4. Các bảng tiên lượng đa thông số
Bảng yếu tố tiên lượng của Ranson và của Imrie (Glasgow)
Năm 1974, dựa trên nghiên cứu 100 bệnh nhân viêm tụy cấp, sau khi phân
tích 43 thông số, Ranson thấy có 11 yếu tố có liên quan đến tình trạng nặng của
bệnh và có thể cho phép đánh giá tiên lượng bệnh trong vòng 48 giờ đầu [21],
[32].
8
Ban đầu, bảng tiên lượng Ranson (bảng 1.1) được thiết lập trên cơ sở là
các bệnh nhân viêm tụy cấp do rượu, sau đó có sửa đổi để áp dụng cho viêm tụy
cấp do sỏi mật. Vì nguyên nhân của bệnh không phải lúc nào cũng rõ ràng, do đó
bảng Ranson không được chấp nhận rộng rãi trên lâm sàng [162].
Bảng 1.1: Bảng yếu tố tiên lượng của Ranson (1974)
Do rượu và nguyên nhân khác Do sỏi mật
Lúc vào viện
Tuổi > 55 > 70
Bạch cầu > 16.000/ mm3 > 18.000/ mm3
Glucose máu > 200 mg/ dL (11 mmol/L) > 220mg/dL(12,2 mmol/L)
LDH > 350 U/L > 250 U/ L
AST (SGOT) > 250 U/L > 250 U/L
Trong 48 giờ đầu
Giảm hematocrite > 10% > 10%
Tăng ure máu > 5 mg/ dL > 2 mg/ dL
Calci máu < 8 mg/ dL (2 mmol/ L) < 8 mg/ dL (2 mmol/ L)
PaO2 < 60 mmHg _
Giảm HCO3- > 4 mmol/L (4 mEq/L) > 5 mmol/L (5mEq/ L)
Dịch ứ đọng > 6000 mL > 4000 mL
Đánh giá: < 3 yếu tố ( viêm tụy cấp nhẹ.
3- 5 yếu tố ( viêm tụy cấp nặng.
> 5 yếu tố ( viêm tụy cấp rất nặng.
Năm 1984, Imrie là một phẫu thuật viên ở Glasgow (Anh) đã đưa ra một
bảng yếu tố tiên lượng bao gồm 8 yếu tố, đánh giá sau 48 giờ (bảng 1.2). Bảng
điểm này có ưu điểm so với bảng điểm Ranson là đơn giản hơn mà lại có thể áp
dụng như nhau đối với tất cả các trường hợp viêm tụy cấp [21], [162].
Bảng yếu tố tiên lượng Ranson và Imrie (Glasgow) đều có hạn chế là chỉ
đánh giá được tiên lượng ở thời điểm 48 giờ mà không có tác dụng đánh giá tiên
9
lượng trong những ngày sau, trong khi đây là thời điểm phát triển các ổ dịch
quanh tụy, ổ hoại tử, apxe tụy, nang giả tụy. Hơn nữa, trên thực tế thường rất khó
thu thập đủ các thông tin cần thiết và bị ảnh hưởng bởi điều trị. Các nghiên cứu
lâm sàng ghi nhận, các bảng điểm tiên lượng này có độ nhạy và độ đặc hiệu
khoảng 70-80% trong tiên lượng các trường hợp viêm tụy cấp nặng, tương
đương với bảng APACHE II được cho là phức tạp hơn nhiều [35], [62], [111].
Cũng có những ý kiến cho rằng, các bảng tiên lượng Ranson và Imrie (Glasgow)
có khả năng tiên lượng rất kém, chỉ tương đương với khám lâm sàng do có độ
nhạy chỉ khoảng 30% [44], [87]. Tuy nhiên, do đơn giản và dễ áp dụng nên cho
đến nay các bảng điểm này vẫn đang được sử dụng rộng rãi nhất [76], [160],
[162].
Bảng 1.2: Bảng yếu tố tiên lượng của Imrie (Glasgow)
Tuổi ( 55
Số lượng bạch cầu ( 15.000/mL
Glucose máu lúc đói ( 10 mmol/L (( 180 mg/dL)
Ure máu ( 16 mmol/L (( 45 mg/dL)
Lactic Dehydrogenase (LDH) > 600 U/L
Albumin máu ( 32 g/L
Calci máu ( 2 mmol/L (( 80 mg/L)
PaO2 < 60 mmHg
Đánh giá sau khi vào viện 48 giờ
0-2 yếu tố → viêm tụy cấp nhẹ.
≥ 3 yếu tố → viêm tụy cấp nặng.
Bảng APACHE II
Năm 1981, Knaus và cộng sự đưa ra bảng APACHE để đánh giá mức độ
nặng của tất cả các loại bệnh đang được điều trị trong các khoa điều trị tích cực,
trong đó có viêm tụy cấp. Nguyên bản bảng điểm này gồm 34 thông số về lâm
sàng và xét nghiệm nên rất phức tạp, khó áp dụng. Đến năm 1985 bảng này được
10
sửa đổi và đơn giản hoá chỉ còn 12 yếu tố và được điều chỉnh theo tuổi và tình
trạng sức khoẻ trước khi vào viện và được gọi là APACHE II [84].
Bảng APACHE II được coi là có khả năng tiên lượng kết cục của viêm tụy
cấp chính xác hơn so với bảng Ranson và Imrie, một ưu điểm của APACHE II là
nó có thể đánh giá mức độ bệnh ngay từ khi bệnh nhân mới vào viện với độ chính
xác khoảng 75%, cũng như theo dõi tiến triển của viêm tụy cấp trong suốt quá
trình điều trị của bệnh nhân. ở thời điểm 48 giờ, bảng điểm APACHE II có giá trị
tương đương các bảng Ranson và Imrie trong xác định mức độ của viêm tụy cấp,
với độ chính xác khoảng 80%. Mặc dù đã được đơn giản hoá, nhưng bảng
APACHE II vẫn quá phức tạp, đòi hỏi phải có máy tính để tính toán, do đó trên
thực tế bảng điểm này rất ít khi được áp dụng và thường chỉ được sử dụng ở các
đơn vị điều trị tích cực [162], [172]. Hơn nữa, một số nghiên cứu lại thấy, bảng
điểm APACHE II không đủ tin cậy trong dự đoán viêm tụy cấp hoại tử [88],
[111].
Bảng 1.3: Bảng điểm APACHE II
A. Các biến số
sinh lý
Mức bất thường cao 0 Mức bất thường thấp
+4 +3 +2 +1 +1 +2 +3 +4
Nhiệt độ (0C) ≥41 39-40,9 38,5-38,9 36-38,4 34-
35,9
32-33,9 30-31,9 ≤29,9
HATB (mmHg) ≥160 130-
159
110-
129
70-109 50-69 ≤49
Nhịp tim ≥180 140-
179
110-
139
70-109 55-69 40-54 ≤39
Nhịp thở ≥50 35-49 25-34 12-24 10-11 6-9 ≤5
PaO2 (mmHg) >70 61-70 55-60 ≤54
pH máu động
mạch
≥7,7 7,6-
7,69
7,5-7,59 7,33-7,49 7,25-7,32 7,15-7,24 <7,15
Na+ máu
(mmol/L)
≥180 160-
179
155-
159
150-154 130-149 120-129 111-119 ≤110
K+ máu
(mmol/L)
≥7 6-6,9 5-5,9 3,5-5,4 3-3,4 2,5-2,9 <2,5
Creatinin
(mg/dL)*
≥3,5 2-3,4 1,5-1,9 0,6-1,4 <0,6
Hematocrit(%) ≥60 50-59,9 46-49,9 30-45,9 20-29,9 <20
Bạch cầu
(103/mL)
≥40 20-39,9 15-19,9 3-14,9 1-2,9 <1
Điểm Glasgow 15 điểm - điểm Glasgow coma của bệnh nhân
Ghi chú: * Nhân đôi điểm nếu suy thận cấp
11
B. Điểm cho tuổi: < 45 tuổi: 0 điểm 65- 74 tuổi: 5 điểm
45- 54 tuổi: 2 điểm 75 tuổi: 6 điểm.
55- 64 tuổi: 3 điểm
C. Điểm cho các bệnh mạn tính trong tiền sử
Nếu như trong tiền sử bệnh nhân bị mắc các bệnh mạn tính (xơ gan, suy
tim, suy thận, bệnh phổi tắc nghẽn hay hạn chế) gây ảnh hưởng nhiều đến chức
năng của các cơ quan, hoặc bị suy giảm miễn dịch, thì cho điểm như sau:
- Bệnh nhân bị mắc các bệnh trên nặng đến mức không thể mổ được hoặc
sau mổ cấp cứu: 5 điểm.
- Bệnh nhân sau mổ phiên: 2 điểm.
Điểm APACHE II được tính = A + B + C
Khi điểm APACHE II ≥ 8 tiên lượng nặng;
< 8 → tiên lượng nhẹ.
1.1.5. Đánh giá dựa vào chụp cắt lớp vi tính (CTSI)
Chụp cắt lớp vi tính là phương pháp chẩn đoán hình ảnh tốt nhất trong chẩn
đoán viêm tụy cấp, phương pháp này vượt trội siêu âm do không bị ảnh hưởng bởi
không khí ở trong ruột. Chụp cắt lớp vi tính có thể chỉ ra các dấu hiệu phản ánh
mức độ viêm ở nhu mô và bên ngoài nhu mô tụy, đặc biệt tốt trong chẩn đoán các
biến chứng của viêm tụy cấp như hoại tử, giả nang tụy, các ổ dịch quanh tụy, apxe
tụy. Do đó chụp cắt lớp vi tính là một trong các phương pháp quan trọng giúp
đánh giá mức độ của viêm tụy cấp [20], [21], [32], [69], [76], [160].
Chụp cắt lớp vi tính kết hợp tiêm thuốc cản quang là “tiêu chuẩn vàng” để
chẩn đoán hoại tử trong viêm tụy cấp. Tiêu chuẩn chẩn đoán hoại tử tụy trên
chụp cắt lớp vi tính là: “một vùng nhu mô tụy (khu trú hay lan rộng) lớn hơn 3
cm hoặc chiếm > 30% tụy, có bờ rõ không ngấm thuốc sau tiêm thuốc cản
quang”. Theo tiêu chuẩn này, chụp cắt lớp vi tính có thể chẩn đoán viêm tụy cấp
hoại tử với độ chính xác ( 90%. Để chẩn đoán nhiễm trùng vùng hoại tử tụy,
người ta tiến hành chọc hút dưới hướng dẫn của chụp cắt lớp vi tính [21], [25].
12
Bất lợi chủ yếu của phương pháp này là chi phí còn cao và chưa được
trang bị rộng rãi, đây chính là khó khăn đối với hầu hết các bệnh nhân ở Việt
Nam. Thêm vào đó, có một số bằng chứng cho thấy, có một sự gia tăng tỷ lệ biến
chứng (tại chỗ và hệ thống) hoặc kéo dài thời gian nằm viện ở các bệnh nhân viêm
tụy cấp có chụp cắt lớp vi tính so với nhóm chứng. Điều này gợi ý, thuốc cản
quang có thể có các tác động độc hại đối với các bệnh nhân viêm tụy cấp [30],
[54].
Để đánh giá mức độ của viêm tụy cấp, trên thế giới hiện nay thường sử
dụng bảng tính chỉ số mức độ nặng trên chụp cắt lớp vi tính của Balthazar gọi là
bảng CTSI (CT Severity Index). Theo đó, việc phân độ viêm tụy cấp dựa trên kết
hợp với 2 dấu hiệu tiên lượng chính là ổ dịch và hoại tử. Cách tính cụ thể như
sau (bảng 1.4): [20]
Bảng 1.4: Bảng tính chỉ số mức độ nặng trên chụp cắt lớp vi tính (CTSI)
Mức độ viêm Điểm
A. Tụy bình thường 0
B. Tụy to khu trú hay to toàn bộ 1
C. Viêm lan ra xung quanh tụy 2
D. Có một ổ dịch quanh tụy 3
E. Có ( 2 ổ dịch quanh tụy 4
Mức độ hoại tử
A. Không hoại tử 0
B. Hoại tử đến 30% tụy 2
C. Hoại tử 30- 50% tụy 4
D. Hoại tử ( 50% tụy 6
Đánh giá: Điểm CTSI= Mức độ viêm + Mức độ hoại tử
1- 2 điểm: Không có biến chứng nặng.
3- 6 điểm: Biến chứng không rõ ràng.
7- 10 điểm: Viêm tụy cấp nặng, tỷ lệ tử vong cao.
13