Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên Cứu Đánh Giá Thực Trạng Vấn Đề Trồng Keo Lai Và Đề Xuất Giải Pháp Phát Triển Loài Cây Này Tại Huyện Thanh Chương Tỉnh Nghệ An
PREMIUM
Số trang
79
Kích thước
1.3 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1715

Nghiên Cứu Đánh Giá Thực Trạng Vấn Đề Trồng Keo Lai Và Đề Xuất Giải Pháp Phát Triển Loài Cây Này Tại Huyện Thanh Chương Tỉnh Nghệ An

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Keo lai là giống lai tự nhiên giữa Keo tai tượng (Acacia mangium) và

keo lá tràm (Acacia auriculiformis). Tuy mới được phát hiện từ những năm

đầu thập kỷ 90 nhưng đã tỏ ra có triển vọng trong danh mục các loài cây trồng

rừng chủ yếu ở nước ta hiện nay bởi có những đặc điểm ưu việt về khả năng

sinh trưởng, tính chất gỗ phù hợp trong công nghệ chế biến cũng như khả

năng cải thiện, nâng cao độ phì của đất. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng Keo

lai là loài có biên độ sinh thái rộng bởi thế mà nó phân bố rộng khắp các

vùng. Qua tuyển chọn đã có một số dòng được công nhận là giống quốc gia và

nhiều dòng được công nhận là giống tiến bộ kỹ thuật. Vì thế Keo lai đã được

trồng phổ biến ở nhiều vùng trong cả nước và trở thành một trong những loài

cây trồng kinh tế chủ lực.

Khi mà nhu cầu của xã hội về sử dụng gỗ ngày càng tăng và đa dạng,

đòi hỏi chúng ta phải tăng năng suất trồng rừng để đáp ứng những nhu cầu đó.

Với những ưu điểm nổi trội, Keo lai đã trở thành một trong những loài cây

mũi nhọn giải quyết vấn đề năng suất cây trồng nguyên liệu. Keo lai mới được

đưa vào trồng rừng tại huyện Thanh Chương những năm gần đây và bước đầu

đã đem lại những thành công nhất định. Tuy nhiên ngoài những thành công đã

đạt được thì vẫn còn có những tồn tại cần được giải quyết. Thực tiễn của công

tác trồng rừng trong những năm qua cho thấy, những thành quả đạt được từ

trồng rừng Keo lai xét trên cả 3 phương diện năng suất, chất lượng và hiệu

quả vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn sản xuất.

Rất nhiều khu vực hiện nay đang tiếp tục mở rộng diện tích trồng rừng Keo

lai, nhưng cũng có nơi diện tích trồng Keo lai đang bị thu hẹp lại, thậm chí có

2

nơi không trồng nữa mà chuyển sang trồng loài cây khác. Vì vậy, thực trạng

rừng trồng Keo lai nói chung và rừng trồng Keo lai trên địa bàn huyện Thanh

Chương nói riêng cần phải được đánh giá một cách đầy đủ về vấn đề khoa học

công nghệ, hiệu quả kinh tế – xã hội – môi trường.

Để có nhận thức thật đầy đủ, toàn diện về hiệu quả mà rừng trồng Keo

lai mang lại, chúng ta cần phải có những nghiên cứu đánh giá một cách toàn

diện làm cơ sở đề xuất các giải pháp phát triển loài cây này một cách bền

vững và hiệu quả. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn nói chung và với huyện

Thanh Chương nói riêng, tôi tiến hành nghiên cứu và thực hiện đề tài:

“Nghiên cứu đánh giá thực trạng vấn đề trồng Keo lai và đề xuất giải pháp

phát triển loài cây này tại huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An”.

Bố cục của luận văn

Luận văn gồm 4 chương và 2 phần là Phần Đặt vấn đề và Phần Kết luận –

Tồn tại – Khuyến nghị. Các chương cụ thể là:

1) Chương 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu

2) Chương 2. Mục tiêu, nội dung và phương pháp nghiên cứu

3) Chương 3. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội

4) Chương 4. Kết quả và thảo luận

Ngoài ra, còn có hệ thống các bảng kê, tài liệu tham khảo tiếng Việt và

tiếng Anh, các phụ lục.

3

Chƣơng 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Tiếp cận đánh giá mức độ thích ứng vùng trồng rừng

1.1.1. Trên thế giới

Ngay từ thế kỷ XIX trên thế giới đã có những nghiên cứu về sinh trưởng,

nghiên cứu điều kiện lập địa đến khả năng cho năng suất cao của các loài cây

rừng khác nhau. Các nghiên cứu tập trung theo 2 hướng cơ bản:

- Tìm các chỉ tiêu tương thích cho mối quan hệ giữa tự nhiên - sinh vật học.

- Tìm các chỉ tiêu tương thích của kinh tế - xã hội tới cây trồng.

Theo hướng thứ nhất các nhà khoa học đã nghiên cứu theo 2 trường phái:

+ Tìm cây phù hợp với điều kiện lập địa.

+ Chọn điều kiện lập địa phù hợp với cây trồng.

Trường phái thứ nhất, lấy biểu hiện của rừng trồng mà các chỉ tiêu quan

trọng là sinh trưởng, khả năng chống chịu sâu bệnh, chống chịu thời tiết, sản

lượng hoa quả, tái sinh, thay đổi độ phì của đất, năng suất qua các chu kỳ kinh

doanh để đánh giá điều kiện lập địa. Theo hướng này các nhà nghiên cứu đã

phân chia cấp đất cho từng điều kiện lập địa cụ thể. Hướng nghiên cứu này phát

triển mạnh ở Châu Âu và Châu Mỹ mà đại diện là Đức, Đan Mạch, Mỹ... Điển

hình là các tác giả Hardy (1936); Bead (1946); Richard (1948) nghiên cứu về

mối quan hệ giữa đặc tính của đất và sinh trưởng của cây trồng. Các nghiên cứu

này cho rằng đối với vùng ôn đới thì độ chua của đất (pH), hàm lượng CaCO3 và

các chất Bazơ là những yếu tố quan trọng nhất. Nghiên cứu của Week (1970) về

quan hệ của cây Tếch và một số yếu tố đất đã xây dựng được hàm R = 1/3 (P X S),

trong đó R: sinh trưởng hàng năm, P: độ sâu tầng đất và S: độ no bazơ...

Kết quả nghiên cứu thu được của trường phái này là đã phân chia được

điều kiện lập địa từ tốt (cấp đất I, cấp đất II), trung bình (cấp đất III) đến xấu

(cấp đất IV), số liệu của các nghiên cứu này là trung thực, có độ tin cậy cao,

4

chính vì thế mà một số tác giả đã khẳng định cấp đất thuyết minh sức sản xuất

của rừng trong điều kiện nhất định. Tuy nhiên, trường phái này cũng thể hiện

một số hạn chế là chỉ áp dụng ở nơi đã có rừng và không giải thích được cơ chế

ảnh hưởng của điều kiện lập địa tới cây trồng. Vì vậy, trường phái nghiên cứu

trên chưa đưa ra được dự báo tốt trong quy hoạch phát triển rừng trồng, nhưng

trường phái này đã mở ra cơ hội đánh giá những loài cây đã trồng phổ biến như

keo lai.

Trường phái thứ hai, dùng phương pháp so sánh mối quan hệ giữa tự

nhiên và sinh vật tức là giữa nhu cầu sinh thái của loài với tiềm năng điều kiện

lập địa qua các chỉ tiêu. Để thực hiện phương pháp này người ta tiến hành xác

định biên độ sinh thái loài, sau đó điều tra đánh giá những chỉ tiêu tương ứng của

điều kiện lập địa. Dựa vào mức độ trùng hợp hay sai lệch mà người ta chia giới

hạn thích hợp của sinh vật với điều kiện lập địa thành các khoảng rất thích hợp

(S1), thích hợp (S2), ít thích hợp (S3) và không thích hợp (N). Một trong những

nghiên cứu nổi bật là phân hạng đất phân chia điều kiện lập địa theo mức độ

thích hợp, tiêu biểu là các nghiên cứu tại Bắc Mỹ, tổ chức FAO...

Trường phái nghiên cứu thứ hai có ưu điểm là áp dụng được cho bất kỳ

nơi nào chưa trồng rừng, phù hợp với việc quy hoạch, dự báo khả năng tiềm ẩn

của điều kiện lập địa. Nhưng nó có những hạn chế là chưa được kiểm nghiệm

thực tế, chưa đánh giá được nhân tố quan trọng nhất tác động tới loài cây trồng.

Hướng thứ hai, các tác giả dùng ảnh hưởng của điều kiện kinh tế - xã hội

đến rừng trồng nhằm đánh giá mức độ thích ứng của vùng trồng rừng. Các

nghiên cứu theo hướng này tập trung đánh giá các chỉ tiêu như mục đích kinh

doanh, vị trí vùng kinh tế sinh thái, yếu tố thị trường, nhu cầu sử dụng lâm sản,

tập quán canh tác,... Hướng nghiên cứu này tập trung được sự chú ý của các nhà

kinh tế học, lâm nghiệp xã hội, các nhà đầu tư... Như vậy, ngoài vấn đề đánh giá

tương thích mối quan hệ giữa tự nhiên với sinh vật học còn cần có sự đánh giá

tương thích về điều kiện kinh tế - xã hội mà hiệu quả tổng hợp là lựa chọn cuối

5

cùng đầy đủ nhất. Sự thật kinh doanh rừng luôn chứa đựng tất cả các yếu tố về tự

nhiên, sinh vật, kinh tế, xã hội và không thể bỏ qua yếu tố nào.

Ngoài ra còn một số nghiên cứu theo các hướng khác như nghiên cứu của

Hill (1960) ở Canada, nghiên cứu của Shwaneker phân chia điều kiện lập địa tại

Việt Nam. Hướng này chỉ phân chia điều kiện lập địa dựa vào một vài tiêu chí về

đất mà không cần quan tâm đến những yếu tố thời tiết, vị trí địa lý... Do vậy, nó

chỉ dừng lại ở mức phân chia điều kiện lập địa theo khả năng tiềm ẩn.

1.1.2. Ở Việt Nam

Ở nước ta trong những năm vừa qua thì rừng trồng nguyên liệu ngày

được quan tâm nhiều hơn. Bên cạnh những cây bản địa được gây trồng thành

công như mỡ, tre luồng, thông… thì một số cây có sinh trưởng nhanh như keo,

bạch đàn từ nhiều xuất xứ được du nhập vào Việt Nam và trở thành cây mũi

nhọn giải quyết vấn đề năng suất cây trồng nguyên liệu.

Nghiên cứu về vấn đề đánh giá mức độ thích hợp của vùng trồng rừng

các nhà khoa học đã sử dụng nhiều chỉ tiêu khác nhau để đánh giá. Hướng tập

trung chủ yếu là đánh giá các chỉ tiêu về đất, kinh tế xã hội mà các biểu hiện của

nó là sinh trưởng, chống chịu sâu bệnh hại, phẩm chất của cây, sản lượng hoa

quả, khả năng tái sinh, làm thay đổi độ phì của đất… Nghiên cứu về sinh trưởng

các nhà khoa học đã phân chia cấp đất cho một số loài cây như; Hoàng Kim Ngũ

và Phạm Văn Điển phân chia cấp đất cho cây Giổi xanh, Hà Quang Khải làm

cho cây luồng, Đỗ Đình Sâm làm cho cây Bồ đề… Nghiên cứu thay đổi của đất

có các tác giả Nguyễn Ngọc Bình (1970) đã đánh giá độ phì của đất biến động

lớn ứng với mỗi thảm thực vật. Hoàng Xuân Tý (1976) nghiên cứu thay đổi của

đất trồng bạch đàn trên đồi trọc cho thấy sau 10 năm các tính chất hoá học cơ

bản chưa có sự thay đổi nhiều. Ngô Đình Quế (1985) nghiên cứu đất trồng thông

nhựa cho thấy sau 8 - 10 năm trồng thông nhựa tính chất đất có thay đổi nhưng

không nhiều. Hoàng Xuân Tý (1988) nghiên cứu đất trồng rừng bồ đề ở 4 hạng

đất cho kết quả sự suy giảm lượng mùn ở cả 4 hạng đất khi phá rừng tự nhiên để

6

trồng bồ đề. Đỗ Đình Sâm (2001) nghiên cứu dạng lập địa và áp dụng biện pháp

kỹ thuật lâm sinh vào trồng rừng nguyên liệu tại vùng trung tâm, Đông Nam Bộ

và Tây Nguyên. Tác giả dựa vào độ dốc, thực bì và độ sâu tầng đất để phân dạng

điều kiện lập địa cho trồng rừng keo tai tượng ở vùng trung tâm thành 5 dạng có

sinh trưởng đạt từ 5,7 m3

/ha/năm đến 25,7 m3

/ha/năm.

1.2. Các nghiên cứu về Keo lai

1.2.1. Trên thế giới

Các loài keo thuộc họ Đậu (Fabaceae), họ phụ Trinh nữ (Mimosoideae),

thuộc ba chi phụ Acacia, Aculeiferum và Phyllodinae (Maslin and Mc Donald,

1996). Theo các tài liệu nghiên cứu thì trên thế giới có khoảng 1250 loài, phân

bố tự nhiên tại một số vùng như châu Á, châu Phi, châu Mỹ và châu Đại Dương

tuy nhiên chúng đặc biệt phát triển tốt ở Châu phi và Australia. Riêng tại

Australia có khoảng 850 loài keo trong đó có hàng trăm loài có lá giả (Phyllode).

Lần đầu tiên giống lai giữa keo tai tượng (Acacia mangium) và keo lá

tràm (Acacia auriculiformis) được Messir Herbern và Shim phát hiện vào năm

1972 trong số các cây keo tai tượng trồng ven đường ở Sook Telupid thuộc bang

Sabah (Malaixia). Năm 1976, Tham cũng khẳng định đó là giống lai giữa 2 loài

keo trên. Tháng 7 năm 1978 sau khi xem xét các mẫu tiêu bản được gửi tháng 1

năm 1977 tại phòng tiêu bản thực vật ở Queensland (Australia), Pegley đã xác

nhận đó là giống lai tự nhiên giữa keo tai tượng và keo lá tràm. Keo lai cũng

được phát hiện ở nhiều nơi khác như: Vùng Balamuk và Old Tonda của Papua

New Guinea (Turnbull, 1986; Gun và cộng sự, 1987; Griffin, 1988).

Về hình thái giải phẫu thực vật có thể kể đến các công trình nghiên cứu

của các tác giả: Pedley, L (1990), Verdcord, B (1979), Turnbull (1986), Gun at

all (1987), Darus và Rasip (1989), Gan và Sim Boon Liang (1991). Cây con keo

lai được Rufelds (1988), Gan, Sim Boom Linang (1991) nghiên cứu thấy rằng

keo lai xuất hiện lá giả (Phyllode) sớm hơn keo tai tượng và muộn hơn keo lá

tràm. Kết quả nghiên cứu của Bowen (1981) cho biết cây keo lai cũng thể hiện

7

trung tính giữa hai loài keo bố mẹ về hoa tự, hoa và hạt. Nó cũng có tính trung

gian về peroxidase isozyme (Kiang Tao và cộng sự, 1988) và hình thái (Shukor,

Abd Rashid, Itam, 1994). Cây lai còn có các kiểu hình trung gian và gần với keo

lá tràm (Sedley, Harbard và cộng sự, 1992).

Về sinh trưởng, tăng trưởng và sản lượng có thể kể đến các công trình

nghiên cứu của Tanpibal và các cộng sự (1991), Ugalde, L.A (1983), Prasad, R.

and Chadhar, S.K (1987)... Nghiên cứu tại Sabah cho thấy cây Keo lai thể hiện

sự sinh trưởng nhanh hơn Keo tai tượng thuần loại, cây Keo lai cũng cho chất

lượng gỗ sợi, gỗ dán lạng, bột giấy tốt hơn Keo tai tượng. Ngoài ra Keo lai cũng

có sự tăng sức chống chịu với bệnh thối ruột gỗ trong khi đó Keo tai tượng lại

thường bị rỗng ruột.

Cây lai có thể không có ưu thế về sinh trưởng (Rufelds, 1987) hoặc có ưu

thế lai như cao hơn và to hơn các loài bố mẹ (Cyril Pinso và Robert Nasi, 1991).

Cây lai có độ tròn thân, mức độ tỉa cành tốt hơn keo tai tượng, còn độ thẳng thân

của cây lai tốt hơn keo lá tràm (Rufelds, 1987). Keo lai có đỉnh ngọn phát triển

tốt, thân cây đơn trục và tỉa cành tốt (Pinyopusarsk, 1990). Keo lai nhân giống

được bằng hom (Griffin, 1988) hoặc nuôi cấy mô (Darus Haji Ahmed, 1991).

Keo lai theo nhận xét của Zobel và Talbert (1984) là những tính trạng tốt

nhất và mong muốn nhất của bố mẹ được thể hiện nhưng những tính trạng xấu

nhất của bố mẹ cũng có thể xuất hiện trong con lai. Với keo lai phần lớn cá thể ở

đời F1 có ưu thế lai rõ rệt về sinh trưởng. Pinso và Nasi (1991) đánh giá tổng hợp

về keo lai cho thấy có ưu thế lai và ưu thế lai này có thể chịu ảnh hưởng của cả

yếu tố di truyền lẫn điều kiện lập địa. Khi đánh giá các tiêu chí chất lượng của

cây keo lai Pinso và Nasi thấy rằng độ thẳng thân, đoạn thân dưới cành, độ tròn

đều của thân... đều tốt hơn hai loài keo bố mẹ và cho rằng keo lai rất thích hợp

cho trồng rừng thương mại.

Ở vùng Châu Á Thái Bình Dương keo lai được phát hiện tại Thái Lan

(Kyika, 1992). Từ năm 1992 ở Indonesia đã bắt đầu có thử nghiệm trồng Keo lai

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!