Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên cứu đánh giá cảnh quan phục vụ phát triển nông, lâm nghiệp và du lịch tỉnh Phú Thọ
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề xây dựng một nền kinh tế - xã hội (KT-XH) phát triển bền vững
đang trở thành một nguyên tắc đảm bảo cho Việt Nam có tốc độ tăng trƣởng
kinh tế cao và ổn định. Đặc biệt, phát triển bền vững ở miền núi hiện nay còn
gặp nhiều khó khăn do có những trở ngại về các mặt nhƣ điều kiện tự nhiên,
KT-XH, việc khai thác sử dụng tài nguyên chƣa hợp với các điều kiện sinh thái
lãnh thổ dẫn đến sự suy thoái và cạn kiệt tài nguyên. Điều này gây ảnh hƣởng
xấu tới xu thế phát triển KT-XH và trực tiếp chi phối đến đời sống cộng đồng.
Do vậy mục tiêu khai thác sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên (TNTN) và
bảo vệ môi trƣờng (BVMT) đối với các vùng lãnh thổ cụ thể là một trong
những vấn đề mang tính chiến lƣợc hiện nay, nhất là ở miền núi, nơi có các
điều kiện tự nhiên và sự phân hóa tự nhiên rất đa dạng và phức tạp.
Các thành phần cấu tạo cảnh quan (CQ) có tính độc lập tƣơng đối, song
giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ tạo thành một hệ thống động lực. Hệ thống
đó tồn tại trong trạng thái cân bằng động, một thành phần nào đó trong hệ
thống thay đổi có thể sẽ dẫn đến sự thay đổi của các thành phần khác và phá vỡ
hệ thống cũ tạo nên một hệ thống mới. Khai thác hợp lý nguồn tài nguyên thiên
nhiên tức là tác động vào hệ thống tự nhiên một cách phù hợp với đặc điểm,
quy luật phát sinh, phát triển của chúng sẽ bảo vệ, tái tạo đƣợc nguồn tài
nguyên thiên nhiên và đảm bảo đƣợc sự phát triển bền vững của lãnh thổ.
Để giải quyết những vấn đề thực tế mang tính tổng hợp cao, nghiên cứu
đánh giá cảnh quan, một công việc tiên quyết trong khai thác và sử dụng hợp lý
tài nguyên, đã trở thành hƣớng nghiên cứu quan trọng và là cơ sở khoa học của
việc lựa chọn các mục tiêu sử dụng hợp lý lãnh thổ.
Phú Thọ là tỉnh thuộc vùng trung du miền núi phía Bắc Việt Nam, có
diện tích tự nhiên là 3.533,4 km2
, nằm trong khu vực giao lƣu giữa các vùng
Đông Bắc, Đồng bằng sông Hồng và Tây Bắc, cách Hà Nội 80 km. Phú Thọ là
một trong những tỉnh có độ che phủ rừng khá cao (49%), có tiềm năng lớn phát
triển lâm nghiệp, có nhiều điều kiện thuận lợi trồng các loại cây công nghiệp,
cây ăn quả, cây lƣơng thực và phát triển kinh tế trang trại,... Phú Thọ còn có
2
nhiều tiềm năng về du lịch tự nhiên, đặc biệt du lịch sinh thái; là miền đất lƣu giữ
nhiều giá trị văn hóa dân tộc đặc sắc của ngƣời Việt.
Để khai thác đƣợc đầy đủ các tiềm năng của tự nhiên đó phục vụ cho
phát triển KT-XH mà không gây tác động xấu đến tự nhiên, đòi hỏi con ngƣời
phải hiểu biết và nắm chắc về các quy luật phát triển của tự nhiên trƣớc khi tiến
hành khai thác.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và lòng mong muốn đƣa ra những ý tƣởng
định hƣớng sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trƣờng nhằm phát triển
KT-XH theo hƣớng phát triển bền vững địa bàn toàn tỉnh nói chung và phát
triển một giống cây trồng quý giá, một đặc sản nổi tiếng của tỉnh Phú Thọ là
cây bƣởi Đoan Hùng nói riêng theo định hƣớng phát triển của tỉnh, nên tác giả
đã chọn đề tài: “Nghiên cứu đánh giá cảnh quan phục vụ phát triển nông,
lâm nghiệp và du lịch tỉnh Phú Thọ” cho luận án của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu
Xác lập đƣợc những luận cứ khoa học cho việc sử dụng hợp lý tài nguyên
thiên nhiên tỉnh Phú Thọ trên cơ sở phân tích, đánh giá cảnh quan cho các mục
đích phát triển kinh tế - xã hội (cụ thể 3 ngành kinh tế nông, lâm nghiệp và du
lịch).
2.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về nghiên cứu đánh giá cảnh quan. Xác
lập cơ sở phƣơng pháp luận, các nguyên tắc và phƣơng pháp ứng dụng kết quả
nghiên cứu cảnh quan trong quy hoạch sử dụng hợp lý TNTN và BVMT tỉnh
Phú Thọ.
- Phân tích các nhân tố thành tạo cảnh quan; thành lập Bản đồ cảnh quan
tỉnh Phú Thọ, tỷ lệ 1:100.000; Bản đồ cảnh quan huyện Đoan Hùng, tỉ lệ
1:50.000; phân tích cảnh quan (cấu trúc, chức năng, động lực) nhằm làm sáng
tỏ quy luật phân hóa tự nhiên lãnh thổ nghiên cứu.
- Đánh giá cảnh quan tỉnh Phú Thọ cho mục đích phát triển 3 ngành nông,
lâm nghiệp và du lịch; Đánh giá cảnh quan huyện Đoan Hùng cho phát triển và
phân bố cây bƣởi đặc sản và đề xuất các định hƣớng khai thác, sử dụng hợp lý
3
tài nguyên, tổ chức không gian phát triển các ngành sản xuất theo các đơn vị
cảnh quan tỉnh Phú Thọ.
3. Phạm vi nghiên cứu
3.1. Phạm vi không gian: toàn bộ lãnh thổ tỉnh Phú Thọ, với diện tích tự
nhiên 3.533,4 km2
.
3.2. Phạm vi khoa học:
- Áp dụng phƣơng pháp tiếp cận địa lý tổng hợp, tiếp cận sinh thái cảnh
quan để giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn phát triển sản xuất, kinh tế và bảo vệ
môi trƣờng tỉnh Phú Thọ với việc lựa chọn đối tƣợng nghiên cứu là các đơn vị
cảnh quan qua bản đồ cảnh quan tỉnh Phú Thọ đƣợc xây dựng ở tỉ lệ 1:100.000;
bản đồ cảnh quan huyện Đoan Hùng, tỉ lệ 1:50.000.
- Các đối tƣợng đánh giá: 3 ngành kinh tế trọng điểm nông nghiệp, lâm
nghiệp và du lịch theo đơn vị loại cảnh quan. Đánh giá thích nghi sinh thái cây
bƣởi huyện Đoan Hùng theo đơn vị dạng cảnh quan.
4. Luận điểm bảo vệ
- Luận điểm 1: Phú Thọ có tiềm năng đa dạng về ĐKTN, TNTN và KT -
XH đã tạo nên đặc điểm phân hóa đa dạng, phức tạp nhƣng có quy luật của tự
nhiên lãnh thổ đƣợc thể hiện rõ qua các đặc trƣng của cảnh quan tự nhiên; đây là
cơ sở khoa học quan trọng cho việc đánh giá mức độ thích nghi của các đơn vị
cảnh quan cho các mục đích thực tiễn.
- Luận điểm 2: kết quả đánh giá cảnh quan kết hợp phân tích hiện trạng
phát triển KT-XH lãnh thổ nghiên cứu là cơ sở để đề xuất các định hƣớng tổ
chức không gian, kiến nghị các giải pháp phù hợp cho phát triển các ngành nông
nghiệp, lâm nghiệp và du lịch của tỉnh Phú Thọ, đề xuất tổ chức không gian phân
bố cây bƣởi đặc sản ở huyện Đoan Hùng.
5. Những điểm mới của đề tài
5.1. Đã nghiên cứu làm rõ sự phân hóa đa dạng và có tính quy luật của tự
nhiên - các cảnh quan tỉnh Phú Thọ. Xây dựng đƣợc hệ thống phân loại, thành
lập Bản đồ cảnh quan tỉnh Phú Thọ, tỉ lệ 1:100.000; Bản đồ cảnh quan huyện
Đoan Hùng, tỉ lệ lớn 1:50.000.
4
5.2. Đã đánh giá và xác lập đƣợc mức độ thích nghi sinh thái của các đơn
vị cảnh quan đối với các ngành nông, lâm nghiệp và du lịch trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ, xây dựng các bản đồ đánh giá thích nghi của các yếu tố địa lý làm cơ
sở đề xuất định hƣớng và các giải pháp cho phát triển bền vững nông, lâm
nghiệp và du lịch trên địa bàn nghiên cứu.
5.3. Xác định đƣợc khả năng phát triển, không gian phân bố và khả năng
mở rộng diện tích phát triển cây bƣởi đặc sản trên địa bàn huyện Đoan Hùng
theo các đơn vị cảnh quan (trên cơ sở bản đồ cảnh quan của huyện tỉ lệ
1:50.000).
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa khoa học: làm sáng tỏ quy luật phân hoá đa dạng, phức tạp
của tự nhiên, những đặc điểm đặc thù trong phân hóa các đơn vị cảnh quan tỉnh
Phú Thọ, đồng thời góp phần hoàn thiện phƣơng pháp nghiên cứu, đánh giá tiềm
năng tự nhiên, sử dụng hợp lí tài nguyên theo hƣớng địa lí ứng dụng cho một lãnh
thổ cụ thể.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: góp phần định hƣớng việc sử dụng hợp lý lãnh thổ
(nông, lâm, du lịch) trên cơ sở các đơn vị cảnh quan. Từ những định hƣớng đƣợc
đề xuất và các mô hình hệ kinh tế sinh thái cho nông - lâm nghiệp đƣợc xây dựng
sẽ góp phần xác lập chiến lƣợc phát triển bền vững KT-XH khu vực nghiên cứu
nói riêng trong mối liên hệ với khu vực trung du miền núi phía Bắc nói chung.
7. Quan điểm và phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Quan điểm nghiên cứu
Dựa trên cơ sở các quan điểm đã đƣợc vận dụng trong nghiên cứu địa lý tự
nhiên tổng hợp, có tính đến những tác động của sản xuất lãnh thổ nhằm sử
dụng hợp lý nguồn TNTN, BVMT và phát triển bền vững KT-XH, những quan
điểm nghiên cứu địa lý địa phƣơng.
7.1.1. Quan điểm hệ thống và tổng hợp
Mỗi hệ thống là một phức hợp các yếu tố và các mối quan hệ qua lại, chính
vì thế, cần phải nghiên cứu hệ thống trên quan điểm tổng hợp. Đây là một trong
những quan điểm quan trọng nhất trong quy hoạch lãnh thổ, bảo vệ tài nguyên và
môi trƣờng. Theo quan điểm này, mỗi một đơn vị tổng hợp thể lãnh thổ là một tổ
hợp có tổ chức của các sự vật và hiện tƣợng. Sự tác động của con ngƣời vào một
5
hợp phần hay một bộ phận tự nhiên nào đó cũng có thể dẫn đến những thay đổi
không lƣờng hết đƣợc trong hoạt động của cả tổng thể.
Các ngành kinh tế phát triển trên cơ sở hệ thống tƣơng đối toàn diện từ
nguồn lực tự nhiên cho đến các nguồn lực kinh tế xã hội. Mỗi ngành kinh tế có
tính đặc thù riêng, tuy nhiên, một nền kinh tế muốn phát triển bền vững phải đảm
bảo mối quan hệ liên ngành, tổng hợp có hệ thống của các thành phần kinh tế.
Quan điểm hệ thống và tổng hợp là những quan điểm chủ đạo, có ƣu thế
trong nghiên cứu lãnh thổ đặc biệt đối với Phú Thọ, một tỉnh trung du miền núi
có tính đa dạng về tự nhiên và nhân văn, càng hiệu quả hơn khi ngƣời nghiên
cứu có khả năng nhìn nhận mối liên hệ giữa các đối tƣợng càng rộng. Quan
điểm này đƣợc tác giả vận dụng trong tất cả các bƣớc tiến hành của luận án, từ
thu thập tài liệu, chuẩn bị nghiên cứu đến việc thực hiện các bƣớc nghiên cứu,
đánh giá cảnh quan và đề xuất định hƣớng sử dụng hợp lý cảnh quan cho các
mục đích thực tiễn.
7.1.2. Quan điểm lãnh thổ
Đối tƣợng địa lý nào cũng cần xác định trên một lãnh thổ cụ thể, có sự
phân hóa và phụ thuộc lẫn nhau trong lãnh thổ đó, đồng thời có mối quan hệ
với các lãnh thổ xung quanh trên phƣơng diện tự nhiên, cũng nhƣ KT-XH.
Trong quá trình nghiên cứu cảnh quan tỉnh Phú Thọ, sự thay đổi bất cứ
một thành phần tự nhiên trong một bộ phận lãnh thổ từ miền núi hay vùng gò đồi
cũng đều có liên quan đến các bộ phận lãnh thổ thuộc khu vực đồng bằng và
ngƣợc lại. Vì vậy, khi nghiên cứu một bộ phận cảnh quan Phú Thọ, tác giả đã đặt
nó trong toàn bộ cảnh quan lãnh thổ thông qua cấu trúc đứng và cấu ngang.
7.1.3. Quan điểm kinh tế sinh thái
Một trong những vấn đề quan trọng trong nghiên cứu và đánh giá cảnh
quan là tìm ra đƣợc phƣơng thức và các định hƣớng sử dụng, bảo vệ cảnh quan
tự nhiên và đem lại lợi ích cho cộng đồng. Vì vậy, đánh giá cảnh quan đối với
các ngành kinh tế phải đi đôi với bảo vệ môi trƣờng, đảm bảo tính toàn vẹn
lãnh thổ của hệ sinh thái, các tác động của các ngành kinh tế đến cảnh quan
phải tính đến khả năng chịu đựng của hệ sinh thái, đảm bảo hiệu quả về kinh tế
và bảo tồn môi trƣờng tự nhiên một cách bền vững. Đề tài đã vận dụng quan
6
điểm này trong quá trình đánh giá thích nghi cảnh quan đối với các ngành kinh
tế nông, lâm nghiệp và du lịch toàn tỉnh Phú Thọ, trong đó đánh giá thích nghi
cảnh quan đối với cây bƣởi huyện Đoan Hùng là một điểm nhấn.
7.1.4. Quan điểm phát triển bền vững
Đối với các vùng trung du miền núi nói chung, Phú Thọ nói riêng, quan
điểm phát triển bền vững cho phép nghiên cứu và đề xuất các biện pháp sử
dụng hợp lý các điều kiện địa lí tự nhiên (trong đó cảnh quan là một thể tổng
hợp địa lí tự nhiên) trong phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp và du lịch dựa
trên các kết quả nghiên cứu, đánh giá tổng hợp các thành phần tự nhiên, môi
trƣờng, hiện trạng sử dụng tài nguyên khu vực. Một nền kinh tế nông, lâm
nghiệp và du lịch sinh thái phát triển bền vững phụ thuộc nhiều vào các yếu tố
tự nhiên (nƣớc, địa hình, khí hậu...), môi trƣờng kinh tế - xã hội (cơ sở hạ tầng,
chính sách, trình độ dân trí....) của mỗi một vùng. Chính vì vậy, khi xác định các
mô hình kinh tế sinh thái, định hƣớng và hoạch định không gian tổ chức sản xuất
cho lãnh thổ Phú Thọ cần phù hợp với đặc trƣng sinh thái môi trƣờng, đặc điểm
kinh tế - xã hội để vừa đạt năng suất, hiệu quả phát triển cao, vừa giữ đƣợc môi
trƣờng lành mạnh, không bị thoái hóa, ô nhiễm, hủy hoại.
7.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phƣơng pháp có thể đi từ phân tích đến tổng hợp hoặc ngƣợc lại, từ
phƣơng pháp truyền thống kết hợp với phƣơng pháp hiện đại,… Tác giả đã sử
dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau:
7.2.1. Phương pháp thu thập, tổng hợp, xử lý số liệu, tài liệu
Trên cơ sở đề cƣơng chi tiết đề tài, căn cứ vào mục tiêu và nội dung nghiên
cứu để tiến hành thu thập các nguồn tài liệu, số liệu, báo cáo, các bản đồ và các
thông tin liên quan đến vấn đề nghiên cứu, đánh giá cảnh quan Phú Thọ.
Do các tài liệu, số liệu thu thập từ nhiều nguồn khác nhau vì vậy cần
chuẩn hóa để đảm bảo tính đồng bộ về thời gian, đơn vị…Sau đó tiến hành
phân tích, tổng hợp, lựa chọn và xử lý nguồn tài liệu, số liệu, biên tập lại các
bản đồ. Các dữ liệu trên sau khi xử lý, phân tích sẽ là cơ sở cho quá trình
nghiên cứu đánh giá cảnh quan, từ đó đề xuất định hƣớng để quy hoạch sử
dụng hợp lý cảnh quan địa bàn nghiên cứu.
7
7.2.2. Phương pháp khảo sát thực địa
Để thực hiện đề tài, tác giả đã thực hiện một số đợt khảo sát thực địa,
nghiên cứu cụ thể đặc điểm phân hóa của tất cả các hợp phần tự nhiên (địa chất,
địa hình, khí hậu, thủy văn, thổ nhƣỡng, sinh vật) và KT-XH (sự phân bố dân
cƣ, dân tộc, cơ sở hạ tầng, hiện trạng sử dụng đất, hiện trạng phát triển các
ngành kinh tế...) của tỉnh Phú Thọ.
Việc khảo sát thực địa đƣợc tiến hành theo 2 tuyến chính, tại mỗi tuyến,
tác giả chú trọng chọn một số điểm chìa khóa có ý nghĩa đối với đề tài: tuyến
Việt Trì- Đoan Hùng- Hạ Hòa-Yên Lập theo đƣờng quốc lộ 2, với các điểm
chìa khóa thành phố Việt Trì, Ao Giời-Suối Tiên, đầm Ao Châu, xã Phú Hộ và
thị trấn Đoan Hùng; tuyến Thanh Thủy - Thanh Sơn - Tân Sơn theo đƣờng 32,
điểm chìa khóa là khu du lịch suối khoáng nóng Thanh Thủy- xã La Phù, Vƣờn
Quốc gia (VQG) Xuân Sơn. Mục đích phân bố các tuyến để thấy đƣợc sự phân
hóa cảnh quan Phú Thọ từ bắc xuống nam, đông sang tây, từ đồng bằng đến
trung du và sang khu vực đồi núi, lập lát cắt Yên Lập - Hạ Hòa - Đoan Hùng.
Ngoài ra, tác giả còn thực hiện một số tuyến khảo sát ngắn, mang tính
phụ trợ, nhằm mục đích cập nhật, chuẩn hóa các tài liệu số liệu đã có và khẳng
định lại các kết quả đã thực hiện.
7.2.3. Phương pháp điều tra xã hội học
Tác giả đã tiếp cận với ngƣời dân đã định cƣ lâu năm hoặc giàu kinh
nghiệm thực tiễn để thu thập thông tin về tình hình sử dụng TNTN, một số vấn
đề về sản xuất, sinh sống của ngƣời dân nhƣ: sử dụng đất, trồng rừng, nuôi
trồng thủy sản, tập quán sản xuất, hiệu quả kinh tế… Đây là nguồn tƣ liệu quan
trọng giúp cho việc đánh giá tài nguyên và đƣa ra định hƣớng sử dụng khả thi
nhất cho địa phƣơng.
Trong quá trình đánh giá, tác giả còn tiến hành tham khảo ý kiến của các
chuyên gia, đặc biệt trong việc lựa chọn trọng số, phân bậc, cho điểm các chỉ
tiêu, nhằm tăng cƣờng tính chính xác và khách quan của kết quả đánh giá.
7.2.4. Phương pháp bản đồ và hệ thông tin địa lý (GIS)
Trong đề tài, phƣơng pháp bản đồ đã đƣợc vận dụng từ khâu đầu tiên để
thu thập thông tin, chuẩn hóa phân tích, tổng hợp các yếu tố thành tạo cảnh
8
quan, đến việc thành lập các bản đồ cảnh quan, các bản đồ đánh giá thích nghi
cảnh quan và cuối cùng là thành lập bản đồ định hƣớng sử dụng cảnh quan tỉnh
Phú Thọ.
Ngoài việc sử dụng phƣơng pháp bản đồ truyền thống, tác giả đã sử
dụng các phần mềm GIS (chủ yếu phần mềm Mapinfo 10.0, Arc GIS) để tiến
hành chỉnh sửa, biên tập và thể hiện các bản đồ hợp phần thành tạo cảnh quan lãnh
thổ nghiên cứu. Tích hợp, chồng xếp các lớp thông tin ở các bản đồ thành phần để
thành lập Bản đồ cảnh quan tỉnh Phú Thọ, Bản đồ cảnh quan huyện Đoan Hùng,
các bản đồ đánh giá cảnh quan, bản đồ định hƣớng sử dụng hợp lý lãnh thổ.
7.2.5. Phương pháp phân tích, đánh giá cảnh quan
Phƣơng pháp phân tích cấu trúc cảnh quan đƣợc thể hiện trong đề tài để
phân tích đặc điểm cảnh quan lãnh thổ nghiên cứu làm cơ sở cho công tác đánh
giá. Luận án cũng áp dụng phƣơng pháp đánh giá thích nghi cảnh quan cho các
mục đích phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp và du lịch tỉnh Phú Thọ, đánh giá
thích nghi sinh thái cảnh quan cho phát triển cây bƣởi huyện Đoan Hùng, từ đó
đề xuất định hƣớng và giải pháp cho việc sử dụng hợp lý nguồn TNTN và
BVMT tỉnh Phú Thọ.
Nội dung cụ thể của phƣơng pháp và các bƣớc tiến hành đánh giá cảnh
quan đƣợc trình bày trong mục 1.2.3.4. Kết quả đánh giá đƣợc thể hiện qua các
ma trận (phần phụ lục).
8. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận án đƣợc trình bày trong 4 chƣơng
gồm 148 trang, với 17 bản đồ, 1 lát cắt, 5 hình vẽ, 23 bảng số liệu, 21 phụ lục.
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận nghiên cứu đánh giá cảnh quan cho các mục
đích thực tiễn
Chƣơng 2: Đặc điểm cảnh quan tỉnh Phú Thọ
Chƣơng 3: Đánh giá cảnh quan cho mục đích phát triển nông, lâm
nghiệp và du lịch tỉnh Phú Thọ
Chƣơng 4: Định hƣớng sử dụng hợp lý cảnh quan cho phát triển nông,
lâm nghiệp và du lịch tỉnh Phú Thọ.
9
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN NGHIÊN CỨU
ĐÁNH GIÁ CẢNH QUAN CHO CÁC MỤC ĐÍCH THỰC TIỄN
1.1. Tổng quan các công trình có liên quan
1.1.1. Nghiên cứu cảnh quan trên Thế giới
Hƣớng nghiên cứu địa lí tự nhiên tổng hợp trên thế giới có từ rất sớm,
cùng với sự phát triển của khoa học địa lí. Giai đoạn từ cuối thế kỉ 19, đầu thế
kỉ 20 đƣợc coi là giai đoạn đặt nền móng cho sự hình thành khái niệm cảnh
quan, với nhiều công trình nghiên cứu về cảnh quan của các tác giả thuộc nhiều
trƣờng phái khác nhau từ trƣờng phái Nga (Liên Xô cũ) và các nƣớc Đông Âu đến
trƣờng phái nghiên cứu cảnh quan của Tây Âu và Bắc Mĩ. Mỗi trƣờng phái đều có
những đặc trƣng nghiên cứu riêng, với nhiều công trình khoa học có giá trị cao, là
kim chỉ nam cho các thế hệ nhà khoa học kế tiếp.
Xem xét lịch sử phát triển ngành cảnh quan học trên thế giới đã thấy rõ đây
là một quá trình phát triển tiến bộ không ngừng, minh chứng bởi nhiều công trình
khoa học có giá trị cả về lý luận và thực tiễn cao. Dƣới đây là một số thành tựu
trong nghiên cứu cảnh quan trên thế giới định hƣớng cho đề tài.
1.1.1.1. Nghiên cứu cảnh quan ở Nga (Liên Xô cũ) và các nước Đông Âu
Cơ sở của địa lý tự nhiên hiện đại gắn liền với tên tuổi và các công trình
nghiên cứu của nhà thổ nhƣỡng học ngƣời Nga V.V. Dokuchaev (1846-1903).
Học thuyết về đất của ông là nhân tố khởi đầu về tổng hợp thể địa lý tự nhiên.
Theo V.V. Dokuchaev thì “đất là kết quả của sự tác động qua lại giữa đá gốc, địa
hình, nước, nhiệt và sinh vật, nó dường như là sản phẩm của cảnh quan và đồng
thời cũng là tấm gương của nó, phản ánh một cách cụ thể hệ thống phức tạp các
mối quan hệ qua lại trong tổng thể tự nhiên”; “đất là tấm gương của cảnh quan”.
Ông cũng là ngƣời đầu tiên thực hiện nguyên tắc tổng hợp trong nghiên cứu các
điều kiện tự nhiên của các địa phƣơng cụ thể. Ông cho rằng, cần phải “Tôn trọng
và nghiên cứu toàn bộ thiên nhiên một cách thống nhất toàn vẹn và không chia
cắt, chứ không tách rời chúng ra từng phần”. Ông coi bản chất của sự tìm hiểu tự
10
nhiên là nghiên cứu các mối liên hệ phát sinh, những tác động tƣơng hỗ có tính
quy luật giữa các sự vật và hiện tƣợng trong thiên nhiên. [99]
Năm 1904, G.I.Vƣxôtxki đã đƣa ra định nghĩa cảnh quan một cách độc đáo,
ông gọi cảnh quan là “địa phương” hay “châu tự nhiên”. Ông nêu lên mức độ
phong phú bên trong của các điều kiện sinh thành chính là dấu hiệu của từng địa
phƣơng, các địa phƣơng khác biệt nhau bởi đặc điểm kết hợp của các kiểu sinh
thành (tức các bộ phận hình thái cảnh quan). Ông cũng có ý nghĩ thành lập các bản
đồ về các kiểu sinh thành (tức bản đồ cảnh quan), đây là cơ sở quan trọng để phục
vụ cho sản xuất nông nghiệp. [49, 69]
Tiếp theo, năm 1913, L.S. Berg công bố tác phẩm “Các đới cảnh quan địa
lí Liên Xô” (tập 1), một công trình nổi tiếng, là cơ sở để hoàn thiện lý luận cảnh
quan. Trong đó, ông đã đƣa vào khoa học địa lí khái niệm “cảnh quan”, ông cho
rằng chính cảnh quan là đối tƣợng nghiên cứu của địa lí. Ông cũng xác định các
đới tự nhiên chính là các đới cảnh quan, bao gồm nhiều vùng tự nhiên hay còn gọi
là các cảnh quan địa lý và trong mỗi cảnh quan có thể thấy mối quan hệ hài hòa
giữa các dạng địa hình, khí hậu, nƣớc, đất và các quần hợp sinh vật. Công lao to
lớn của ông là đã sáng lập nên trƣờng phái cảnh quan học.
Tiếp đó, các nhà địa lý Xô Viết giữa thế kỉ 19 nhƣ S.V. Kalexnik, A.A.
Grigôriev, N.A. Xôntxev, V.N. Xukatxev, B.B. Pôlƣnôv, V.I. Prokaev, V.X.
Preobrajenxki, A.G. Ixatsenko... tiếp tục hoàn thiện về lý luận và thực tiễn
nghiên cứu cảnh quan cho mục đích phát triển nền kinh tế quốc dân. Mặc dù
quan niệm về cảnh quan còn khác nhau nhƣng hầu hết các nhà địa lí Xô Viết
đều coi “cảnh quan” là một thực thể tự nhiên, là các “thể tổng hợp tự nhiên” ở
các cấp khác nhau.
Kể từ năm 1917, cảnh quan đã xâm nhập sâu vào thực tế nghiên cứu lãnh
thổ ở địa lí Nga. Những bản đồ cảnh quan đầu tiên do B.B.Pôlƣnôv, I.V.Lajjrin,
R.I.Abôlin thành lập là thành tựu quan trọng của những cuộc nghiên cứu thực địa,
chủ yếu đƣợc xây dựng ở tỷ lệ lớn và trung bình, phân chia lãnh thổ các địa
phƣơng trên cơ sở các yếu tố đá mẹ, địa hình, đất và thực vật. Những bản đồ này
thành lập một cách ngẫu nhiên do nhu cầu thực tiễn do đó thiếu thống nhất, nhƣng
đã đƣa ra đƣợc lập luận rằng: những biện pháp cải tạo thiên nhiên phải dựa trên
bản đồ cảnh quan. [49, 51]
11
Sau năm 1945, cảnh quan học Xô Viết ngày càng mở rộng mạnh mẽ công
tác thực địa thành lập bản đồ cảnh quan cũng nhƣ tăng cƣờng nghiên cứu về lý
luận. Năm 1947, N.A.Xôntxev đã trình bày những tổng hợp lý luận đầu tiên, ông
phát triển các quan niệm về cảnh quan trong các công trình trƣớc đó của
L.G.Ramenxki, X.V.Kalexnik, đƣa ra một định nghĩa mới, rõ ràng hơn về hình
thái cảnh quan. Từ đó bắt đầu có nhiều công trình nghiên cứu về lý luận cảnh quan
và các vấn đề liên quan nhƣ quần hệ sinh vật, địa hoá học cảnh quan, phân vùng
địa lý tự nhiên và hƣớng nghiên cứu định lƣợng trong cảnh quan cũng đƣợc quan
tâm. Đầu tiên là các nghiên cứu của B.B. Pôlƣnôv, tiếp đó A.I. Pérelman đã
nghiên cứu về sự di động của các nguyên tố hoá học trong cảnh quan và yếu tố
hoá học trong phân chia cảnh quan. Tác giả M.A.Glazôpxkaia đã tiến hành xây
dựng những nguyên tắc phân loại địa hoá các cảnh quan một cách cụ thể hơn và
đƣa ra hệ thống phân loại các cảnh quan địa phƣơng. Hƣớng nghiên cứu địa vật lý
cảnh quan do A.L.Armand đề xuất, ông đã sử dụng các phƣơng pháp vật lý hiện
đại để nghiên cứu mối tác động qua lại giữa các thành phần cấu tạo nên CQ. [70]
Năm 1955, hội nghị chuyên đề cảnh quan học đƣợc triệu tập ở Lêningrat và
liên tiếp sau đó là các Hội nghị Khoa học về các vấn đề cảnh quan học đƣợc tổ
chức gần nhƣ hàng năm. Từ đó các nhà nghiên cứu cảnh quan học Xô Viết đã dần
hoàn thiện lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu, ứng dụng cảnh quan học, mở rộng
các công trình nghiên cứu và thành lập bản đồ cảnh quan ở nhiều tỷ lệ khác nhau,
nghiên cứu về nguyên tắc, phƣơng pháp xây dựng bản đồ, phân loại cảnh quan,
vấn đề sử dụng học thuyết cảnh quan trong thực tiễn qua các công trình của
N.I.Mikhailôv, V.B.Xôtsava (1956), N.A.Gvozdetxki (1963), X.V.Kalexnik
(1964), A.G.Ixatsenko (1965), P.N.Minkov, V.X.Preobrazenxki (1966),
N.A.Xôntxev, V.I.Prôkaev (1971)... [69,73]
Kể từ sau những năm 60 của thế kỷ 20, ở Liên Xô, khoa học cảnh quan đã
đi từ nghiên cứu cấu trúc sang nghiên cứu chức năng, động lực trên cơ sở Địa lý
học. Hàng năm đã có vài trăm công trình nghiên cứu về các vấn đề phân vùng địa
lý tự nhiên, phân vùng ứng dụng và nghiên cứu về cảnh quan học. Những công
trình này đã có những nghiên cứu sâu về các vấn đề ứng dụng cảnh quan, đáng
chú ý nhất là các công trình phân loại cảnh quan của A.G.Ixatsenko (1961),
N.A.Gvozdexki (1963), V.A.Nhicolaev (1970). [69]
Tại Đông Âu, ở Ba Lan sự quan tâm về các vấn đề cảnh quan xuất hiện
do sự ảnh hƣởng của các nhà nghiên cứu cảnh quan Liên Xô. Năm 1959,
12
E.Cônđratxki đã xây dựng hệ thống phân loại và thành lập bản đồ cảnh quan Ba
Lan tỷ lệ 1:1.000.000. Xu hƣớng này cũng đƣợc các nhà địa lý Tiệp Khắc vận
dụng để nghiên cứu lãnh thổ Tiệp Khắc. [49]
Có thể thấy rằng hƣớng nghiên cứu cảnh quan tại Nga và các nƣớc Đông
Âu ngày càng đi sâu vào nghiên cứu đa dạng cấu trúc, chức năng và động lực phát
triển của CQ, mục đích nghiên cứu CQ để ứng dụng vào các vấn đề phát triển
kinh tế-xã hội của đất nƣớc, các vùng miền, lãnh thổ nhằm sử dụng hợp lý TNTN,
BVMT và phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững.
1.1.1.2. Nghiên cứu cảnh quan ở Tây Âu và Bắc Mỹ
So với Nga và Đông Âu, các nghiên cứu cảnh quan tại Tây Âu và Bắc Mĩ
xuất hiện muộn hơn, chỉ thực sự bắt đầu từ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 và lúc
đầu với những quan niệm không khác xa nhau.
Năm 1905, nhà địa lý ngƣời Anh A.Ghebecxơn đã cho rằng nhiệm vụ của
Địa lý học là phân chia và hệ thống hoá những thể tổng hợp và đƣa ra các kiểu
khu vực thiên nhiên cơ bản của đất liền bằng cách xem xét những sự khác biệt
chung nhất về địa hình, khí hậu và thực vật.
Một trong những nhà lý luận cảnh quan đầu tiên ngƣời Đức là Z.Passarge
(1866-1958), ông đã có những công trình về các đới cảnh quan trên Trái Đất. Sau
đó các nhà địa lý ngƣời Đức cũng đã tiến hành thành lập bản đồ cảnh quan và chủ
yếu dựa trên nghiên cứu cấu tạo hình thái cảnh quan, lấy các đơn vị sinh cảnh để
phân chia cảnh quan.
Tác giả G.Bertrand (Pháp) năm 1968, trong công trình “Phong cảnh tự nhiên
toàn cầu”, coi phong cảnh là một bộ phận sinh thái có thể nhận thấy của cảnh
quan. Vì thế mà ở Pháp, thuật ngữ “Phong cảnh (Paysage)” đƣợc sử dụng thay
cho thuật ngữ cảnh quan.
Các nhà địa lí Mĩ nhƣ M.Khactoxơ, D.Uitttơlxli cũng tập trung nghiên cứu
địa lí khu vực nhƣng cũng trên quan điểm của các nhà địa lí Xô Viết. Nói chung, ở
Bắc Mĩ (Canada và Hoa Kì), quá trình nghiên cứu tiến tới cảnh quan học diễn ra
chậm và mang tính chất tự phát, chủ quan và duy tâm. [51]
Kể từ 1980 trở về trƣớc, các nghiên cứu CQ học ở các nƣớc Tây Âu và Bắc
Mĩ không phát triển mạnh bằng Liên Xô và các nƣớc Đông Âu, chủ yếu nghiên
cứu theo hƣớng môi trƣờng địa lí tự nhiên và không có nhiều công trình lớn. Chỉ
13
từ sau năm 1980, cảnh quan học đã có sự kết hợp với sinh thái học xuất hiện một
hƣớng nghiên cứu mới là Sinh thái cảnh quan.
Đây cũng là hƣớng nghiên cứu phát triển mạnh mẽ bắt đầu từ các nƣớc Tây
Âu và Bắc Mĩ, với nhiều điểm tiến bộ, đã ứng dụng các phƣơng pháp định lƣợng
trong nghiên cứu của mình nhƣ công nghệ viễn thám, GIS hoặc số liệu thống
kê không gian,...[11]
1.1.1.3. Một số hướng nghiên cứu cảnh quan ứng dụng cho mục đích phát
triển kinh tế - xã hội
Cho đến nay, cảnh quan vẫn là một chủ đề rộng lớn và phức tạp với nhiều
hƣớng nghiên cứu chuyên sâu, phục vụ nhiều mục đích khác nhau nhƣ: phát triển
các ngành sản xuất (nông, lâm, ngƣ nghiệp, du lịch,...), sử dụng hợp lý tài nguyên
và môi trƣờng, bảo tồn đa dạng sinh học, kiến trúc, xây dựng, bảo tồn cảnh
quan,... Trong đó, phải kể đến một số hƣớng nghiên cứu chuyên sâu đã và đang
phát triển mạnh mẽ hiện nay nhƣ: cảnh quan sinh thái (CQST); cảnh quan đô thị
(CQĐT), cảnh quan nông thôn (CQNT); cảnh quan văn hóa (CQVH),...
- Hƣớng nghiên cứu cảnh quan sinh thái: Trong quá trình phát triển của
khoa học cảnh quan xu thế sinh thái hóa dần dần xâm nhập vào môn khoa học
này. Để trả lời câu hỏi “cảnh quan học là gì?” đã đƣợc các nhà khoa học Đức và
Nga cho định nghĩa tƣơng đối rõ, tuy nó thiên về các yếu tố vô cơ nhiều hơn. Các
nhà sinh thái học trƣớc đó vẫn đang tập trung vào nghiên cứu sinh thái học cơ thể,
sinh thái học quần thể, các hệ sinh thái..., tuy nhiên các nhà sinh thái muốn đƣợc
thể hiện các nghiên cứu của mình một cách logic hơn qua việc thể hiện không gian
và mối quan hệ tổng hợp, còn các nhà cảnh quan muốn đƣa ra các công trình có
tính định lƣợng hơn, lý giải các quan hệ bằng trao đổi vật chất, năng lƣợng và
thông tin, thay vì các đơn vị chỉ mang tính chồng xếp và thấy thực chất là các đơn
vị này không chỉ mang tính đồng nhất mà còn là quan hệ của các yếu tố không
đồng nhất.
Bên cạnh nhiều công trình nghiên cứu về phƣơng pháp luận nghiên cứu
CQST, vai trò của của các hợp phần trong cấu trúc CQST (thảm thực vật, thủy
văn, khí hậu...), cũng đã có nhiều công trình đi sâu nghiên cứu CQST ứng dụng,
nghiên cứu ảnh hƣởng của cấu trúc CQST đối với phân bố động vật, hay khía
cạnh địa lí y học trong đánh giá CQST,... [11]
14
- Hƣớng nghiên cứu cảnh quan văn hóa: vào những khoảng những năm
1925 và 1930 của thế kỷ 20, các nhà địa lí trên thế giới đã bắt đầu quan tâm nhiều
tới mối quan hệ và các tác động qua lại giữa con ngƣời và thiên nhiên, quan tâm
nghiên cứu những cảnh quan bị tác động bởi hoạt động kinh tế của con ngƣời.
Một số tác giả gọi đó là cảnh quan văn hóa vì cho rằng đó là kết quả của những
hoạt động văn hóa lên tự nhiên. Một số tác giả khác lại gọi đó là cảnh quan nhân
sinh (CQNS) vì đƣợc hình thành do những tác động của con ngƣời vào cảnh quan
tự nhiên. Tuy nhiên, do cách tiếp cận khác nhau nên các quan niệm về đối tƣợng
nghiên cứu ở nhiều góc độ, trong đó, đối tƣợng nghiên cứu các nhà cảnh quan học
không phải chỉ ở mỗi đơn vị cảnh quan tự nhiên mà cả ở những cảnh quan biến
đổi do con ngƣời và cả những cảnh quan văn hóa do con ngƣời tạo ra. [135]
- Hƣớng nghiên cứu cảnh quan đô thị, cảnh quan nông thôn: đây là
hƣớng nghiên cứu hiện đang đƣợc chú trọng trên thế giới nói chung và tại Việt
Nam. Xu thế hiện nay đô thị đang ngày càng chịu tác động mạnh mẽ của con
ngƣời. Các nghiên cứu về cảnh quan luôn đƣợc coi trọng, là cơ sở quan trọng
trong quá trình quy hoạch thiết kế xây dựng đô thị. Bên cạnh đó, nông thôn ngày
nay cũng không ngừng biến đổi, chịu nhiều tác động và phần nào đó đã bị thay
đổi. Đã có nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới của các nhà kiến trúc sƣ, xây
dựng, địa lí học,... đi sâu về hƣớng nghiên cứu CQĐT, CQNT. [42, 145]
Tóm lại, nghiên cứu cảnh quan trên thế giới đã có những bƣớc tiến vƣợt
bậc và đạt nhiều thành tựu to lớn. Sự phát triển mạnh mẽ khoa học cảnh quan theo
nhiều hƣớng khác nhau thể hiện ý nghĩa thực tiễn và những đóng góp to lớn của
ngành khoa học này.
Từ cách tiếp cận cảnh quan ở các hƣớng khác nhau giúp ngƣời nghiên
cứu có thể ứng dụng cảnh quan vào nhiều lĩnh vực khác nhau, mục tiêu hƣớng tới
phát triển cảnh quan đa chức năng. Ở mức độ nào đó, hƣớng nghiên cứu cảnh
quan đa chức năng có thể hỗ trợ các nhà kinh tế, nhà đầu tƣ, quản lý ra quyết định,
lập kế hoạch quản lý, sử dụng hợp lý các loại TNTN và BVMT bền vững.
1.1.2. Nghiên cứu cảnh quan ở Việt Nam
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về Địa lí tự nhiên (ĐLTN) tổng hợp đã xuất
hiện sớm từ trƣớc năm 1954, nhƣng ngành khoa học về cảnh quan phát triển muộn
hơn, chỉ thực sự phát triển từ sau năm 1975.
15
- Giai đoạn trước năm 1975. Đây là giai đoạn đặt nền móng cho sự phát
triển của khoa học cảnh quan Việt Nam sau này, các nghiên cứu chủ yếu theo
hƣớng phân vùng ĐLTN.
+ Giai đoạn trƣớc năm 1954 (Pháp thuộc): Hầu nhƣ không có một công
trình nào của các tác giả trong nƣớc, chủ yếu là một số công trình nghiên cứu
của các tác giả nƣớc ngoài trên phạm vi toàn bán đảo Đông Dƣơng, trong đó
phần nào có đề cập đến lãnh thổ Việt Nam nhằm phục vụ các mục tiêu quân sự
và khai thác tài nguyên của Pháp ở các nƣớc thuộc địa, trong đó có Việt Nam.
+ Giai đoạn từ 1954 đến 1975: đã bắt đầu có một số công trình khoa học
có giá trị. Đầu tiên phải kể đến sự đóng góp to lớn, có công đầu trong nghiên cứu
cảnh quan là Nguyễn Đức Chính và Vũ Tự Lập với “Địa lí tự nhiên Việt Nam”
(1963), “Về sự cần thiết nghiên cứu tổng hợp đất nước bằng phương pháp cảnh
quan” (1970) và nghiên cứu của tổ phân vùng ĐLTN thuộc Ủy ban Khoa học và
Kỹ thuật nhà nƣớc năm 1970 với tên gọi “Phân vùng địa lí tự nhiên lãnh thổ
Việt Nam”.
Các nghiên cứu trong giai đoạn này chủ yếu là các nghiên cứu về phân vùng
ĐLTN tổng hợp, dƣới sự trợ giúp của các nhà Địa lí Xô Viết, hƣớng nghiên cứu
cảnh quan theo hƣớng phân loại chƣa phổ biến.
- Giai đoạn sau năm 1975: giai đoạn khoa học cảnh quan Việt Nam phát triển.
+ Giai đoạn 1975 đến 1990: ngoài các nghiên cứu theo hƣớng phân vùng
ĐLTN, bắt đầu có những nghiên cứu cảnh quan theo hƣớng phân loại.
Công trình “Cảnh quan địa lí miền Bắc Việt Nam” (Vũ Tự Lập) năm
1976 là công trình khoa học có giá trị, một bƣớc tiến mới về lí luận trong
nghiên cứu cảnh quan ở nƣớc ta, là cuốn sách gối đầu giƣờng của nhiều thế hệ
các nhà nghiên cứu địa lí Việt Nam. Trong đó, tác giả áp dụng phân vùng cảnh
quan và sau đó là phân loại cảnh quan theo cá thể (lãnh thổ miền Bắc đƣợc chia
làm 577 cá thể cảnh quan).
Cuốn “Thiên nhiên Việt Nam” (Lê Bá Thảo) năm 1977, cuốn sách xuyên
suốt lãnh thổ Việt Nam theo hƣớng phân vùng ĐLTN. Tác giả kết hợp phân tích
đặc điểm ĐKTN từng vùng kết hợp các định hƣớng sử dụng hợp lý tài nguyên
mỗi vùng theo quan điểm phân vùng lãnh thổ kinh tế.