Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên cứu chế tạo bộ xét nghiệm ELISA phát hiện nọc rắn độc và ứng dụng lâm sàng chuẩn đoán rắn độc cắn ở Việt Nam
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN QUÂN Y
ĐỖ KHẮC ĐẠI
NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO BỘ XÉT NGHIỆM ELISA
PHÁT HIỆN NỌC RẮN ĐỘC VÀ ỨNG DỤNG LÂM SÀNG
CHẨN ĐOÁN RẮN ĐỘC CẮN Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: DỊ ỨNG VÀ MIỄN DỊCH
Mã số: 62.72.01.09
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
HÀ NỘI - 2013
CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI HỌC VIỆN QUÂN Y
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. LÊ VĂN ĐÔNG
2. PGS. TS. NGUYỄN TRƯỜNG SƠN
Phản biện 1: GS. TS. VĂN ĐÌNH HOA
Phản biện 2: PGS. TS. NGUYỄN LIỄU
Phản biện 3: GS. TSKH. NGUYỄN THU VÂN
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp trường
vào hồi: giờ ngày tháng năm
Có thể tìm hiểu luận án tại:
1. Thư viện Quốc Gia
2. Thư viện Học viện Quân y
3. ………………………….
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Đỗ Khắc Đại, Đỗ Minh Trung, Nguyễn Đặng Dũng và Lê Văn
Đông (2009), “Nghiên cứu chế tạo xét nghiệm ELISA phát hiện
nọc của bốn loài rắn độc thường gặp ở Việt Nam và ứng dụng
chẩn đoán rắn độc cắn trên mô hình thực nghiệm”, Tạp chí Y
dược học quân sự, (4), tr. 16 - 23.
2. Đỗ Khắc Đại, Nguyễn Trường Sơn và Lê Văn Đông (2011),
“Nghiên cứu chế tạo xét nghiệm ELISA kiểu sandwich sử dụng 3
loại kháng thể đặc hiệu phát hiện nọc rắn lục xanh và hổ đất”,
Tạp chí Y dược học quân sự, (9), tr. 30 - 37.
3. Đỗ Khắc Đại, Nguyễn Trường Sơn, Trần Quang Bính, Lê
Khắc Quyến và Lê Văn Đông (2012), “Nghiên cứu đánh giá
hiệu quả của xét nghiệm ELISA phát hiện nọc rắn lục xanh và hổ
đất trên lâm sàng”, Tạp chí Y học Việt Nam, 396(1), tr. 112 - 117.
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rắn độc cắn là một trong những tai nạn nguy hiểm thường gặp ở các
nước nhiệt đới, với trên 2,5 triệu người bị rắn độc cắn và khoảng 125.000
người tử vong do rắn độc cắn mỗi năm [39], [40], [66], [68], [121]. Ở nước ta,
các chuyên gia ước tính mỗi năm có khoảng 30.000 người bị rắn cắn nhưng
phần lớn không được báo cáo ghi nhận đầy đủ do nạn nhân tử vong trước khi
kịp đến cơ sở y tế hoặc được cấp cứu và điều trị theo các biện pháp dân gian
[wilken]. Thống kê số liệu của gần hai nghìn bệnh nhân rắn độc cắn nhập
viện, các chuyên gia của Bệnh viện Chợ Rẫy nhận định một số loài rắn độc
thường gây tai nạn rắn cắn nhất ở khu vực Miền Nam nước ta là rắn lục xanh
(43,3%), hổ đất (23,8%), chàm quạp (19,4%), hổ mèo (10%) và hổ chúa
(1,2%) [77].
Nhiễm độc nọc rắn nếu không được điều trị kịp thời có thể dẫn đến tử
vong hoặc để lại di chứng nặng nề, ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc sống
của nạn nhân sau khi sống sót [39]. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, phương pháp
điều trị hiệu quả nhất cho bệnh nhân bị nhiễm độc nọc rắn là huyết thanh
kháng nọc rắn (HTKNR) [114]. Ở Việt Nam, đã có 2 loại HTKNR thương
phẩm được sử dụng trên lâm sàng đó là huyết thanh kháng nọc rắn lục xanh
và hổ đất do Viện vắc xin và Sinh phẩm y tế (IVAC) ở Nha Trang sản xuất.
Tuy nhiên, việc sử dụng 2 loại huyết thanh kháng nọc rắn đơn đặc hiệu này
chỉ thực sự hiệu quả khi xác định sớm và chính xác loài rắn độc đã gây ra tai
nạn rắn cắn [2]. Cho đến nay, ở nước ta việc chẩn đoán loài rắn độc đã gây ra
tai nạn rắn cắn để sử dụng HTKNR chủ yếu dựa vào kinh nghiệm lâm sàng,
do đó thường bị hạn chế và chỉ được thực hiện ở các bệnh viện tuyến cuối nơi
có các chuyên gia nhiều kinh nghiệm.
Hiện nay trên thế giới đã có một số loại xét nghiệm được dùng để phát
hiện nọc rắn độc của Úc, Ấn Độ và Đài Loan ngay trên thực địa và lâm sàng
2
tại các nước này. Tuy nhiên, do đặc điểm địa lý khác nhau nên có sự phân bố
các loài rắn khác nhau giữa các vùng địa lý. Từ đó, xét nghiệm phát hiện nọc
của loài rắn độc có ở khu vực này không sử dụng được để phát hiện nọc của
loài rắn có ở khu vực khác [15], [56]. Do vậy, cần phải phát triển các xét
nghiệm phát hiện riêng nọc rắn của các loài rắn độc sinh sống ở Việt Nam mà
cho tới nay nước ta vẫn chưa có [5].
Bộ xét nghiệm phát hiện nọc rắn độc là bộ xét nghiệm cấp cứu; Ngoài
khả năng phát hiện nhanh và chính xác nọc độc, bộ xét nghiệm này còn đòi
hỏi phải đơn giản, dễ sử dụng, bền vững trong các điều kiện bảo quản và sử
dụng ở thực địa, nơi có trang thiết bị tối thiểu. Với các lý do trên, kỹ thuật hấp
phụ miễn dịch gắn enzym (enzyme-linked immunosorbent assay: ELISA)
thường được áp dụng cho mục đích này. Trong các dạng xét nghiệm ELISA,
thì ELISA sandwich sử dụng hệ khuếch đại avidin-biotin (AB-ELISA) và
ELISA sandwich sử dụng kháng thể thứ ba gắn enzym (AbE-ELISA) là hai
dạng thiết kế được ứng dụng nhiều nhất trong phát triển bộ xét nghiệm phát
hiện nọc rắn độc.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, đề tài: “Nghiên cứu chế
tạo bộ xét nghiệm ELISA phát hiện nọc rắn độc và ứng dụng lâm sàng
chẩn đoán rắn độc cắn ở Việt Nam” được tiến hành nhằm:
1. Chế tạo bộ xét nghiệm AB-ELISA phát hiện nọc độc của 4 loài rắn lục
xanh, hổ đất, chàm quạp, hổ chúa và phát triển bộ xét nghiệm AbE-ELISA
phát hiện nọc độc của 2 loài rắn lục xanh và hổ đất ở Việt Nam.
2. Đánh giá hiệu quả phát hiện nọc và định loài rắn độc của bộ xét nghiệm
ELISA trong các bệnh phẩm lâm sàng.
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. TAI NẠN RẮN CẮN VÀ CHẨN ĐOÁN RẮN ĐỘC CẮN
1.1.1. Một số loài rắn độc thường gặp gây ra tai nạn rắn cắn ở Việt Nam
Việt Nam là một nước nằm trong vùng nhiệt đới với địa hình và khí hậu
khác nhau giữa các miền Bắc, Trung, Nam. Từ đặc điểm tự nhiên đó đã tạo
nên sự đa dạng sinh học ở nước ta, trong đó có sự đa dạng về các loài rắn
độc. Theo Trần Kiên và Nguyễn Quốc Thắng (1995), Việt Nam có hơn một
trăm loài rắn, trong đó có hàng chục loài rắn độc phân bố cả trên cạn và dưới
nước [8]. Trong đó, một số loài rắn độc thường gặp gây ra tai nạn rắn độc cắn
ở nước ta đó là:
1.1.1.1. Rắn lục xanh (Trimeresurus albolabris)
Hình 1.1. Rắn lục xanh đuôi đỏ
*Nguồn: theo Trần Thị Kim Ngân (2011) [9].
4
Rắn lục xanh (Trimeresurus stejnegeri K. Schmidt, 1925) là loài rắn có
chiều dài dưới 1 m, sống ở trên cây, phần trước cơ thể nhỏ phân biệt rất rõ với
cổ, có hố má. Mặt lưng màu xanh lá cây, mặt bụng màu xanh lá cây nhạt hơn.
Dọc bên thân có thể có đường màu trắng hay vàng, ở cá thể đực đường này
thường có màu đỏ. Mỗi lứa đẻ có từ 3 đến 10 rắn con; rắn sơ sinh trông giống
rắn trưởng thành. Có nọc độc và nguy hiểm [8].
Theo Lê Khắc Quyến (2003) nghiên cứu trên 1997 nạn nhân bị rắn độc
cắn nhập viện Chợ Rẫy điều trị trong 10 năm, thấy rằng số nạn nhân bị rắn lục
xanh cắn chiếm tỷ lệ 43,3% là loài rắn gây ra tai nạn rắn độc cắn nhiều nhất
trong tổng số nạn nhân bị rắn độc cắn được nghiên cứu [77].
1.1.1.2. Rắn hổ đất (Naja naja kaouthia)
Hình 1.2. Rắn hổ đất
*Nguồn: theo Lê Văn Đông (2010) [4].
5
Rắn hổ đất (Naja naja kouthia Linnaeus 1758) ở miền Nam Việt Nam
là loài rắn cỡ lớn, đầu không phân biệt với cổ, không có vảy má. Rắn có khả
năng bạnh cổ khi bị kích thích, khi đó ở phía trên cổ trông rõ một vòng tròn
màu trắng. Rắn hổ miền Bắc Việt Nam (từ Đà Nẵng trở ra), ở hai bên vòng
tròn có giải màu trắng (gọi là gọng kính). Lưng có màu nâu thẫm, vàng lục
hay đen, hoặc đồng màu hoặc có những dải hoa văn như những vạch ngang
đơn hoặc kép sáng màu hơn. Chiều dài cơ thể tới 200 cm [8].
Theo Lê Khắc Quyến (2003) nghiên cứu trên 1997 nạn nhân bị rắn độc
cắn nhập viện Chợ Rẫy điều trị trong 10 năm, thấy rằng số nạn nhân bị rắn hổ
đất cắn chiếm tỷ lệ 23,8 % trong tổng số nạn nhân bị rắn độc cắn được nghiên
cứu [77].
1.1.1.3. Rắn chàm quạp (Calloselasma rhodostoma)
Hình 1.3. Rắn chàm quạp
*Nguồn theo Lê Văn Đông ( 2010) [4]
Rắn chàm quạp (Calloselasma rhodostoma, Boie, in Boie, 1827) là loài
rắn có chiều dài khoảng 100cm với chín vảy che rắn chắc và cân đối ở phía
6
trên đỉnh đầu. Mõm nhọn và chĩa lên phía trên. Sống mũi kéo dài từ mắt đến
mõm. Thân không dày lắm, các vảy trơn nhẵn. Hoa văn trên thân gồm từ 19
đến 31 dấu hình tam giác màu nâu thẫm viền trắng sắp xếp thành từng đôi
hoặc đối diện nhau hoặc xen kẻ. Các con cái đẻ từ 13 đến 30 trứng và canh
giữ trong suốt khoảng thời gian từ 5 đến 7 tuần lễ ấp trứng. Rắn con dài từ 13
- 20cm trông giống như rắn trưởng thành [8].
Theo Lê Khắc Quyến (2003) nghiên cứu trên 1997 nạn nhân bị rắn độc
cắn nhập viện Chợ Rẫy điều trị trong 10 năm, thấy rằng số nạn nhân bị rắn
chàm quạp cắn chiếm tỷ lệ 19,4 % trong tổng số nạn nhân bị rắn độc cắn được
nghiên cứu [77].
1.1.1.4. Rắn hổ mèo (Naja naja siamensis)
Hình 1.4. Rắn hổ mèo
*Nguồn: theo Lê Khắc Quyến (2003) [77].
Rắn hổ mèo (Naja naja siamensis) là loài rắn có đầu không phân biệt
với cổ, không có vảy má. Rắn có khả năng bạnh cổ khi bị kích thích, khi đó ở
7
phía trên cổ nhìn rõ hai vòng tròn cân đối ở hai bên (giống hai mắt kính nên
còn gọi là rắn mắt kính) được nối với nhau bởi một vệt hoa văn hình chữ V
(giống gọng kính hình chữ V). Lưng có màu nâu thẫm, vàng lục hay đen,
hoặc đồng màu. Chiều dài cơ thể tới 160 cm, chiều dài trung bình khoảng 90
– 120 cm. Rắn con non mới nở có hình dạng giống rắn trưởng thành và có khả
năng bạnh cổ [8].
Theo Lê Khắc Quyến (2003) nghiên cứu trên 1997 nạn nhân bị rắn độc
cắn nhập viện Chợ Rẫy điều trị trong 10 năm, thấy rằng số nạn nhân bị rắn hổ
mèo cắn chiếm tỷ lệ 10 % trong tổng số nạn nhân bị rắn độc cắn được nghiên
cứu [77].
1.1.1.5. Rắn hổ mang chúa (Ophiophagus hannah)
Hình 1.5. Rắn hổ chúa
*Nguồn: theo Lê Khắc Quyến (2003) [77].
8
Rắn hổ mang chúa (Ophiophagus hannah Cantor, 1836) là loài rắn độc
có kích thước lớn nhất, chúng có khả năng bạnh cổ song không bạnh to được
bằng rắn hổ mang thường. Mặt trên đầu rắn hổ chúa có 2 tấm vảy chấm lớn.
Lưng rắn trưởng thành có màu vàng lục hay nâu nhiều khi chỉ có màu đen chì.
Cá thể non lưng có màu đen với nhiều vệt ngang sáng, ở cổ có hình chữ V
ngược màu vàng nhạt. Chiều dài cơ thể khoảng 300 – 400 cm, có khi đạt tới
500 cm [8].
Theo nghiên cứu của Lê Khắc Quyến (2003) nhận thấy, tuy tỷ lệ gây tai
nạn của rắn hổ chúa chỉ chiếm 1,2 % nhưng tỷ lệ tử vong của những nạn nhân
bị rắn hổ chúa cắn phải nhập viện lại rất cao, nếu không có huyết thanh điều
trị đặc hiệu [77].
Ngoài những loài rắn được mô tả ở trên còn có một vài loài rắn khác
cũng là thủ phạm gây ra tai nạn rắn độc cắn ở Việt Nam như: Rắn cạp nia
(Bungarus candidus) chiếm tỷ lệ là 2,1 % và rắn biển (sea snakes) chiếm tỷ lệ
là 0,2 % trong tổng số nạn nhân bị rắn độc cắn [77].
1.1.2. Một số đặc điểm lâm sàng rắn độc cắn
Rắn độc cắn là vấn đề y tế và xã hội lớn ở nhiều nước trong các vùng
nhiệt đới và cận nhiệt đới, đặc biệt là ở các nước nghèo và đang phát triển,
trong đó có Việt Nam. Rắn cắn được coi là một tai nạn nghề nghiệp của
những người hoạt động bắt rắn, chăn nuôi rắn, những người làm rừng, nông
dân, ngư dân. Hai khu vực có nhiều nạn nhân bị rắn cắn là Đông Nam Á và
Châu Phi [77].
Tại nước ta, về mặt dịch tễ học, chưa có khảo sát ở cấp độ quốc gia nào
được thực hiện để ước tính tỉ lệ bệnh nhân bị rắn cắn thực tế. Theo nghiên cứu
của Lê Khắc Quyến năm 2003 cho thấy tai nạn rắn cắn xảy ra ở hầu hết các
vùng trong cả nước [77]. Số liệu từ 3 bệnh viện đa khoa khu vực cho thấy số
trường hợp rắn cắn điều trị tại các bệnh viện này là các con số đáng kể. Tại