Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên cứu can thiệp nội mạch điều trị rò động mạch cảnh xoang hang sau chấn thương
PREMIUM
Số trang
162
Kích thước
8.9 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1830

Nghiên cứu can thiệp nội mạch điều trị rò động mạch cảnh xoang hang sau chấn thương

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Tên đề tài luận án: “Nghiên cứu can thiệp nội

mạch điều trị rò động mạch cảnh xoang hang

sau chấn thương ”

Chuyên ngành: Ngoại thần kinh – sọ não Mã số: 62.72.07.20

Họ và tên nghiên cứu sinh: Trần Chí Cường

Họ và tên cán bộ hướng dẫn:

- PGS. TS. Võ Tấn Sơn (Hướng dẫn chính)

- PGS. TS. Võ Văn Nho (Hướng dẫn phụ)

Tên cơ sở đào tạo: Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh

1

    

ĐẶT VẤN ĐỀ:

Rò động mạch cảnh xoang hang là sự thông nối bất thường từ động mạch

cảnh qua xoang tĩnh mạch hang. Được phân thành 4 type A, B, C, D theo Barrow

[37]. Trong đó rò động mạch cảnh xoang hang type A được gọi là rò trực tiếp do

rách thành động mạch cảnh trong, đoạn đi trong xoang hang, nguyên nhân

thường gặp nhất là sau chấn thương đầu, nguyên nhân khác là do vỡ phình mạch

cảnh trong xoang hang. Các type còn lại được gọi là rò gián tiếp, thường là bệnh

tự phát nguồn động mạch rò là từ các nhánh động mạch nhỏ nuôi màng cứng

vùng xoang hang của động mạch cảnh trong hoặc cảnh ngoài.

Ở nước ta hay gặp nhất là thể rò động mạch cảnh xoang hang trực tiếp sau

chấn thương đầu do tai nạn giao thông. Theo nhiều nghiên cứu [90],[98] rò động

mạch cảnh xoang hang trực tiếp có thể chiếm tỉ lệ 0,2-0,3% số bệnh nhân sau

chấn thương đầu. Với con số thống kê có hàng nghìn trường hợp chấn thương

đầu, chấn thương sọ não do TNGT của ban an toàn giao thông làm cho số lượng

bệnh nhân rò động mạch cảnh xoang hang ở nước ta rất đông. Hàng tháng nước ta

có hàng nghìn trường hợp tử vong do TNGT trong đó không ít các trường hợp do

chảy máu mũi xoang ồ ạt không cầm được có thể là do rò động mạch cảnh xoang

hang vỡ vào xoang bướm như đã được mô tả trong y văn [32]. Do đó cho thấy vấn

đề cấp cứu và điều trị các bệnh liên quan đến chấn thương nhất là chấn thương

mạch máu như rò động mạch cảnh xoang hang luôn là vấn đề bức thiết của xã hội.

Ở nước ta trước khi có can thiệp nội mạch thì rò động mạch cảnh xoang

hang được điều trị bằng phẫu thuật thả cơ qua một lỗ mở động mạch cảnh ở cổ và

phẫu thuật thắt động mạch cảnh ở cổ. Can thiệp nội mạch được thực hiện trong

những năm gần đây nhưng chưa có nhiều công trình nghiên cứu trong nước đánh

2

    

giá. Do đó việc nghiên cứu ứng dụng và đánh giá kết quả kỹ thuật can thiệp nội

mạch trong điều trị các thương tổn động mạch cảnh sau chấn thương đặc biệt là

điều trị rò động mạch cảnh xoang hang thật sự là điều cần thiết.

Theo nhiều tài liệu và nghiên cứu ngoài nước [50],[62],[66],[90],[113] phương

pháp can thiệp nội mạch mang lại hiệu quả cao hơn các phương pháp trước đây

như phẫu thuật thắt động mạch cảnh và thả cơ gây tắc. Tuy nhiên, phương pháp

này cũng đòi hỏi sử dụng các máy móc thiết bị hiện đại, dụng cụ sử dụng khá đắt

tiền. Về phương pháp can thiệp nội mạch, có hai vật liệu chính dùng gây tắc lỗ rò

là bóng và coil (cuộn lò xo, vòng xoắn). Bóng gây tắc được làm bằng latex kích

thước khi chưa bơm căng khoảng 1-2mm, coil gây tắc là một sợi kim loại có thể

cuộn lại như hình lò xo đường kính của sợi từ 0,01-0,018 inch và có chiều dài từ

2cm đến 30cm. Hiện nay chưa có nghiên cứu và hướng dẫn cụ thể nào giúp phân

loại tình trạng lỗ rách động mạch cảnh cũng như chưa có hướng dẫn hay phác đồ

cụ thể nào giúp chọn lựa vật liệu gây tắc là bóng hay coil.

Trong tình hình thực tế ở nước ta các dụng cụ can thiệp là khá đắt tiền do

đó việc lựa chọn vật liệu điều trị sao cho phù hợp cũng là điều hết sức quan

trọng. Việc lựa chọn đúng vật liệu để điều trị sẽ mang lại kết quả tốt và tiết kiệm

chi phí cho bệnh nhân. Thật vậy, khi điều trị một trường hợp rò động mạch cảnh

xoang hang thì các vấn đề đặt ra là: phân loại lỗ rách thế nào là lỗ rách lớn, nhỏ?

Chọn lựa vật liệu gây tắc là bóng hay coil dựa vào phân loại lỗ rách? Khi nào

phải bảo tồn hay tắc luôn động mạch cảnh đoạn rò? Với kết quả từ nghiên cứu

này tác giả hy vọng sẽ đưa ra phân loại lỗ rách trên hình chụp mạch máu não xóa

nền, đồng thời góp phần cụ thể hóa phương pháp xử trí và cách chọn lựa vật liệu

điều trị thích hợp ứng với từng loại thương tổn của mạch máu thực tế trên bệnh

nhân nước ta nhằm đạt hiệu quả điều trị cao nhất và giúp bệnh nhân đỡ tốn kém.

3

    

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:

Chúng tôi nghiên cứu đề tài “ Can thiệp nội mạch điều trị rò động mạch

cảnh xoang hang sau chấn thương” nhằm các mục tiêu sau:

Mục tiêu nghiên cứu:

- Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và hình ảnh học chẩn đoán bệnh rò động

mạch cảnh xoang hang sau chấn thương type A, xác định trên chụp mạch

máu não xóa nền (DSA).

- Khảo sát diễn tiến kích thước của lỗ rách và thời gian từ lúc bệnh nhân bị

chấn thương đến khi được điều trị.

- Đánh giá kết quả điều trị và tiên lượng khả năng điều trị theo độ lớn lỗ

rách.

4

    

1 Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1 Giải phẫu động mạch cảnh và vùng xoang hang:

Xoang hang nằm ở vùng sàn sọ là nơi có cấu trúc khá phức tạp về giải phẫu

vì vị trí nằm sâu, có nhiều hình dạng khác nhau, liên quan nhiều cấu trúc quan

trọng như mạch máu, thần kinh, xương và xoang hơi. Các thành phần trong

xoang hang liên quan chặt chẽ với nhau, đan xen nhau, do đó khi có thương tổn

vùng này thường là thương tổn nhiều cấu trúc động mạch, tĩnh mạch và thần

kinh. Xoang hang là nơi giới hạn giao điểm ngăn cách giữa trong sọ và ngoài sọ

chỉ bởi một lớp màng cứng mỏng là thành trên xoang hang, thành dưới xoang

hang nằm trên xoang bướm và ngăn cách với xoang bướm chỉ bằng một lớp

xương mỏng, do đó thương tổn xoang hang có thể biểu hiện triệu chứng vào

trong sọ hoặc ngoài sọ. Ví dụ trong bệnh cảnh rò động mạch cảnh xoang hang

nếu kèm thương tổn màng cứng trên xoang hang sẽ gây xuất huyết nội sọ, ngược

lại, nếu kèm vỡ thành trên xoang bướm có thể gây chảy máu mũi xoang.

Vùng xoang hang còn là nơi có nhiều dạng biến đổi về giải phẫu, có thể

tồn tại các động mạch bào thai như động mạch hạch sinh ba (trigerminal artery)

và các vòng tuần hoàn trong ngoài sọ qua đoạn xoang hang cũng rất quan trọng

như: từ cảnh trong cảnh ngoài, động mạch cảnh và đốt sống, các kiểu thông nối

qua vòng động mạch Willis. Các vòng nối này có ý nghĩa rất quan trọng trong

việc điều trị các bệnh lý vùng xoang hang, nhất là trong tình huống cần gây tắc

động mạch cảnh đoạn xoang hang.

Nói chung, việc nắm vững cấu trúc giải phẫu vùng xoang hang và các

động mạch cảnh trong ngoài sọ cũng như các dạng thay đổi giải phẫu vùng này

là điều rất cần thiết không chỉ trong chẩn đoán và điều trị các bệnh lý mạch máu

mà còn liên quan trong điều trị các bệnh lý vùng sàn sọ và trong não.

5

    

1.1.1 Động mạch cảnh ngoài:

Động mạch cảnh ngoài xuất phát tại nơi chia đôi của động mạch cảnh

chung khoảng ngang mức đốt sống cổ C4. Tại nơi xuất phát nó nằm phía trước

và bên trong động mạch cảnh trong sau đó đi ra phía sau và ngoài động mạch

cảnh trong. Động mạch cảnh ngoài nằm trước tĩnh mạch cảnh trong được che

phủ bởi cơ ức đòn chũm và có thần kinh hạ thiệt chạy ngang, động mạch cảnh

ngoài nằm trước bên thần kinh phế vị. Theo tác giả Lê Văn Cường [3] nghiên cứu

trên 51 mẫu xác người Việt Nam có 2 trường hợp không có thân động mạch cảnh

ngoài riêng biệt, chiếm 3,9%, trong trường hợp này các nhánh của động mạch

cảnh ngoài xuất phát trực tiếp từ động mạch cảnh chung.

Hình 1.1: Động mạch cảnh ngoài và các nhánh

(Nguồn: Anne G.Osborn (1999) Diagnostic Cerebral Angiography [31] )

6

    

Phân nhánh: Động mạch cảnh ngoài cho 8 nhánh chính cấp máu cho đầu

mặt cổ và tạo thành các vòng nối trong ngoài sọ cùng với động mạch đốt sống và

động mạch cảnh trong.

Động mạch giáp trên (Superior thyroid artery):

Động mạch giáp trên thường là nhánh đầu tiên của động mạch cảnh ngoài,

nó thường mọc lên từ thành trước của động mạch cảnh ngoài đi vào cấp máu cho

vùng đỉnh của tuyến giáp. Khoảng 20% trường hợp động mạch giáp trên xuất

phát từ nơi chia đôi của động mạch cảnh, khoảng 10% xuất phát từ động mạch

cảnh chung, 2% có thể xuất phát từ động mạch lưỡi [36]. Động mạch giáp trên cấp

máu cho thanh quản, phần trên tuyến giáp. Động mạch này cho nhánh nối với

động mạch giáp trên bên đối diện, nối với động mạch giáp lưỡi, nhánh của động

mạch thân giáp cổ.

Động mạch hầu lên (Ascending Pharyngeal artery) :

Động mạch hầu lên là nhánh nhỏ và đầu tiên nằm phía sau của động mạch

cảnh ngoài, nó thường xuất phát từ nơi chia đôi của động mạch cảnh chung hay

tại đoạn đầu của động mạch cảnh ngoài. Động mạch hầu lên cấp máu cho nhiều

cấu trúc quan trọng: hầu họng, hòm nhĩ và các cấu trúc tai giữa và cho nhánh

thần kinh màng não (neuromeningeal branch): là nhánh rất quan trọng cấp máu

cho màng cứng vùng sàn sọ và các dây thần kinh sọ thấp : dây VII, IX, XII.

Động mạch hầu lên cho nhiều nhánh nối quan trọng với các nhánh của

động mạch cảnh trong như: động mạch cảnh nhĩ (đoạn xương đá), động mạch

thân bên dưới (inferolateral trunk) trong đoạn xoang hang của động mạch cảnh

trong. Động mạch hầu lên còn cho nhánh nối với động mạch đốt sống ở khoảng

C3 qua các nhánh cơ cột sống các nhánh màng não của động mạch sống vùng

sàn sọ và còn cho nhánh nối với động mạch dưới đòn qua nhánh cổ lên.

7

    

Động mạch lưỡi (Lingual atery):

Động mạch lưỡi là nhánh trước thứ hai của động mạch cảnh ngoài. Đầu

tiên đi lên, nằm giữa các cơ hầu và cơ móng lưỡi, sau đó đi vào cấp máu cho lưỡi

và khoang miệng. Trong 10 – 20% các trường hợp động mạch lưỡi xuất phát

cùng gốc với động mạch hàm [129].

Động mạch mặt (Facial artery):

Là nhánh trước thứ ba của động mạch cảnh ngoài, còn được gọi là động

mạch hàm ngoài, nó xuất phát phía trên động mạch lưỡi đi lên sau đó đi cong

xuống và ra ngoài vào tuyến dưới hàm vùng hàm dưới, sau đó đi lên trên và ra

trước ngang qua vùng má. Động mạch mặt tận cùng gần vùng giữa xương hốc

mắt và đổi tên thành động mạch góc (angular artery). Tại đây động mạch mặt

thông nối với các nhánh của động mạch mắt thuộc hệ cảnh trong tạo thành vòng

nối trong ổ mắt, đây là vòng nối rất quan trọng giữa động mạch cảnh trong và

động mạch cản ngoài, đặc biệt trong trường hợp động mạch cảnh trong bị tắc và

còn thông nối với các nhánh khác của động mạch cảnh ngoài như động mạch

hàm trong, động mạch mặt ngang.

Động mạch mặt cấp máu cho vùng mặt, khẩu cái, môi, má, cho nhiều

nhánh : động mạch khẩu cái lên, động mạch dưới cằm, động mạch môi trên, môi

dưới, các nhánh mũi.

Động mạch chẩm (Occipital artery):

Động mạch chẩm xuất phát từ phía sau của động mạch cảnh ngoài, sau đó

nó đi ra sau lên trên, đi ngang qua giữa xương chẩm và đốt sống cổ một. Động

mạch chẩm cho nhánh cấp máu cho các cấu trúc cơ, da vùng sau cổ và còn cho

nhánh màng não vùng hố sau.

8

    

Động mạch chẩm cho rất nhiều nhánh thông nối với các nhánh của động

mạch cảnh ngoài, động mạch hầu lên, thái dương nông, tai sau, với động mạch

đốt sống qua các nhánh cơ ở khoảng C1-C2 và còn nối với động mạch cổ lên của

động mạch dưới đòn, các động mạch màng não vùng hố sau.

Động mạch tai sau (Posterioir Auricular Artery):

Động mạch tai sau là nhánh nhỏ phía sau của động mạch cảnh ngoài, xuất

phát trên động mạch chẩm hay có thể xuất phát từ động mạch chẩm. Sau khi xuất

phát động mạch này đi lên trên ra sau cấp máu cho ống tai ngoài, loa tai, da đầu.

Động mạch tai sau cho nhánh rất quan trọng là động mạch mỏm trâm

chủm (Stylomastoid artery) cấp máu cho thừng nhĩ. Động mạch mỏm trâm chủm

có thể xuất phát từ động mạch chẩm, động mạch này nối với nhánh xương đá của

động mạch màng não giữa.

Động mạch thái dương nông (Superficial temporal artery):

Động mạch thái dương nông là một trong hai nhánh tận của động mạch

cảnh ngoài. Động mạch cảnh ngoài cho hai nhánh tận ngay dưới lồi cầu xương

hàm dưới. Tại nơi xuất phát động mạch thái dương nông nằm phía sau lồi cầu

sau đó đi từ sâu ra nông, lên trên ra trước, là nhánh quan trọng cấp máu cho hai

phần ba trước của da đầu, một phần tai ngoài và tuyến mang tai.

Động mạch hàm (Maxillary artery):

Động mạch hàm còn được gọi là động mạch hàm trong, là nhánh tận lớn

của động mạch cảnh ngoài. Động mạch hàm xuất phát trong tuyến mang tai, phía

sau cổ xương hàm dưới, sau đó đi chếch ra trước vào trong, đi vào khoang chân

bướm khẩu cái cấp máu cho phần sâu của mặt và mũi. Động mạch hàm cho

nhánh rất quan trọng vào trong sọ là động mạch màng não giữa. Tại nơi xuất

phát vùng gốc động mạch hàm trong vùng tuyến mang tai, động mạch màng não

9

    

giữa chui qua lỗ gai vào sọ cấp máu cho màng não vùng hố sọ giữa lên vùng

đỉnh, màng não vùng sàn sọ, và một phần màng cứng vùng trán và chẩm thấp.

Động mạch hàm cho rất nhiều nhánh nối : với động mạch cảnh trong qua

động mạch mắt và thân dưới bên (inferolateral trunk) trong đoạn xoang hang của

động mạch cảnh trong, với các nhánh khác của động mạch cảnh ngoài : động

mạch thái dương nông, động mạch mặt.

1.1.2 Động mạch cảnh trong:

Động mạch cảnh trong là nguồn cấp máu chính cho não bộ, thuộc tuần

hoàn trước, thông nối với tuần hoàn của động mạch đốt sống thân nền qua vòng

động mạch Willis. Có nhiều hệ thống phân đoạn động mạch cảnh, chúng tôi sử

dụng hệ thống phân đoạn mới theo Bouthillier và cộng sự [38].

Hình 1.2: Phân đoạn động mạch cảnh theo Bouthillier

( Nguồn: Anne G.Osborn (1999) Diagnostic Cerebral Angiography [31])

10

    

Động mạch cảnh trong đoạn cổ : C1

Động mạch cảnh trong xuất phát từ động mạch cảnh chung thường ở

khoảng mức C3-C4 hoặc C4-C5. Đoạn C1 của động mạch cảnh trong gồm 2 phân

đoạn : củ cảnh và cổ lên, đoạn củ cảnh là đoạn ngay sau tách ra từ động mạch

cảnh trong, thường có kích thước hơi lớn hơn đoạn sau. Đoạn cổ lên tiếp nối từ củ

cảnh và đi vào khoang cảnh và chạy lên trên đến nền sọ tận cùng ở ống cảnh.

Trong đoạn này động mạch cảnh trong liên quan nhiều cấu trúc quan trọng: tĩnh

mạch cảnh, hạch lympho, thần kinh hậu hạch giao cảm, các dây sọ IX, X, XII.

Động mạch cảnh trong đoạn này không có nhánh nhưng có nhiều dạng biến

đổi về giải phẫu và có thể không tồn tại động mạch cảnh trong khoảng 0,01% [41].

Động mạch cảnh trong đoạn xương đá (C2):

Động mạch cảnh trong đi lên vùng cổ và đi vào nền sọ qua ống cảnh của

xương đá, gồm 2 phần là phần đứng và phần ngang. Trong ống cảnh, động mạch

cảnh trong được bao bọc bởi đám rối tĩnh mạch, đây là phần tĩnh mạch được kéo

dài từ xoang hang xuống, và vài rễ thần kinh tự chủ tách ra từ hạch cổ trên cũng

bao quanh động mạch cảnh đoạn này.

Các nhánh của động mạch cảnh trong đoạn xương đá không hằng định,

tuy nhiên có vai trò quan trọng là tăng cường tuần hoàn thông nối từ cảnh ngoài

vào cảnh trong khi động mạch cảnh trong bị tắc. Trong đoạn này có 2 nhánh

động mạch là động mạch ống cảnh hay còn gọi là động mạch vidian, cho nhánh

nối với động mạch cảnh ngoài, tồn tại trong khoảng 30% các mẫu xác được phẫu

tích [31] và động mạch cảnh nhĩ cung cấp máu cho các cấu trúc trong tai giữa, cho

nhánh nối với động mạch nhĩ dưới là nhánh của động mạch hầu lên. Trên hình

chụp DSA có thể thấy động mạch ống cảnh, còn động mạch cảnh nhĩ thường

không thấy được trừ khi có sự giãn lớn bất thường.

11

    

Động mạch cảnh trong đoạn xương đá lạc chỗ (aberrant petrous internal

carotid artery) là bất thường về giải phẫu quan trọng nhất của động mạch cảnh

trong đoạn xương đá. Động mạch cảnh trong đoạn này không đi lên trên và cong

nhẹ ra trước mà đi ngang ra sau vào khoang tai giữa, sau đó đi quặt ra trước tạo

thành một góc nhọn và nhiều trường hợp gây ra tiếng mạch đập trong tai. Nhiều

tác giả cho rằng động mạch cảnh trong xương đá lạc chỗ là do sự kém phát triển

của động mạch trong thời kỳ bào thai. Trong trường hợp này tuần hoàn bàng hệ

thường phát triển tăng cường từ động mạch cảnh nhĩ với động mạch hầu lên qua

nhánh màng nhĩ dưới. Ngoài ra, động mạch cảnh trong đoạn xương đá còn có các

bất thường khác về giải phẫu khác như tồn tại động mạch bào thai như: tồn tại động

mạch bàn đạp (stapedial artery), tồn tại động mạch mang tai (otic artery).

Động mạch cảnh trong đoạn lỗ rách (C3):

Động mạch cảnh trong đoạn lỗ rách bắt đầu sau khi động mạch cảnh đi ra

khỏi ống cảnh đi lướt qua lỗ rách. Đoạn này động mạch cảnh được bao bọc bởi một

lớp màng xương và hạch thần kinh sinh ba. Đoạn C3 thường không có nhánh.

Động mạch cảnh trong đoạn xoang hang (C4):

Hình 1.3: Các dạng cong của động mạch cảnh trong xoang hang

(Nguồn: Anne G.Osborn (1999) Diagnostic Cerebral Angiography [31])

12

    

Động mạch cảnh trong đoạn xoang hang bắt đầu từ vùng giới hạn trên của

dây chằng đá lưỡi, chia làm 3 đoạn nhỏ là đoạn lên, đoạn ngang và đoạn lên trên

ra trước. Như vậy 2 đoạn lên và đoạn ngang tạo thành 2 góc cong động mạch

cảnh, đoạn này gọi là gối sau và gối trước. Đoạn C4 đi ra khỏi xoang hang khi đi

qua vòng màng cứng ở thành trên.

+ Các cấu trúc liên quan vùng xoang hang:

- Phía ngoài:

Hạch Gasser (hạch thần kinh sinh ba) bao phủ động mạch cảnh trong từ

đoạn C3 và phần lên của C4, và ngăn cách với động mạch bởi một lớp màng

cứng gọi là hố Meckel. Phía trước bên của động mạch cảnh là các dây thần kinh

vận nhãn : III, IV, VI. Trong đó dây III và dây IV dính vào màng cứng thành

bên, chỉ có dây VI thật sự đi trong lòng xoang hang xen giữa đám rối tĩnh mạch

không dính vào thành ngoài và gần động mạch cảnh nhất, do đó nó dễ bị thương

tổn nhất khi có sự chèn ép hay thương tổn vùng xoang hang.

- Phía trong:

Động mạch cảnh trong là cấu trúc nằm trong nhất trong xoang hang, nó

được bao quanh bởi nội mô xoang hang và các thành mỏng của tĩnh mạch, nó

chạy trên một rãnh xương rất mỏng của trần xoang bướm, khoảng hai phần ba

các mẫu xác phẫu tích có mẫu xương bướm ngăn cách xoang bướm và động

mạch cảnh là dưới 1mm, khoảng 4% các trường hợp vách ngăn này chỉ là một

lớp màng cứng mỏng [109],[55].

- Phía trên:

Lều tiểu não liên tục từ hố sọ sau phủ phía trên xoang hang và động mạch

cảnh C4 và cùng với phần màng cứng che phủ xoang hang phía trước tạo thành

vòng màng cứng bao quanh động mạch cảnh trong, vòng màng cứng này là giới

13

    

hạn ngăn cách động mạch cảnh trong đoạn C4 và C5. Hố yên và tuyến yên nằm

phía trên trong so với động mạch cảnh C4 và ngăn cách với động mạch cảnh bởi

một lớp xương và màng cứng mỏng che phủ xoang hang.

- Phía dưới:

Phía dưới động mạch cảnh C4 là rãnh động mạch cảnh của trần xoang

hang, thần kinh V1 và V2 nằm dính vào thành ngoài của xoang hang và phía

dưới ngoài so với động mạch cảnh C4.

- Phía trước:

Phía trước động mạch cảnh C4 là các xương ổ mắt, mỏm yên trước (mấu

giường trước) nằm hơi trước trên và phía bên so với phần trên của đoạn C4.

+ Các nhánh của động mạch cảnh trong đoạn C4:

Đoạn trong xoang hang cho vài nhánh nhỏ, và không hằng định, bao gồm :

Hình 1.4: Các nhánh động mạch đoạn trong xoang hang và sàn sọ

(Nguồn: Harnsberger H.Ric, (2006), Diagnostic and Surgical Imaging anatomy

Brain, Head and Neck, Spine:[64])

14

    

A: Động mạch thân màng não tuyến yên

B: Động mạch lều tiểu não

C: Động mạch viền lều tiểu não

D: Động mạch tuyến yên dưới

E: Động mạch tuyến yên

F: Động mạch mấu giường dưới

G: Động mạch mấu giường bên

H: Động mạch mấu giường bên ngoài

I: Động mạch mấu giường bên trong

K: Nhánh động mạch hầu lên

L,M: Nhánh động mạch màng não giữa

N: Thân động mạch bên dưới

P: Động mạch thân nền

- Động mạch thân màng não tuyến yên (A) (meningiohypophyseal artery)

còn được gọi là động mạch thân sau (posterior trunk) gặp trong hầu hết các mẫu

phẫu tích, nó xuất phát từ vùng đỉnh của đoạn cong thứ nhất (gối sau) của C4.

Động mạch này cho nhánh cấp máu cho tuyến yên, lều tiểu não mấu giường [31],

đây là nhánh quan trọng nhất gồm 2 nhánh nhỏ : động mạch lều tiểu não bên

(Lateral tentorial artery) : đi từ nơi xuất phát trong đoạn xoang hang dọc theo rìa

bên của lều tiểu não (B) có thể cho nhánh nối với động mạch màng não giữa và

động mạch chẩm và động mạch viền lều não (Marginal tentorial artery) : đi từ

nơi xuất phát trong đoạn xoang hang dọc theo bờ tự do của lều tiểu não (C).

- Động mạch tuyến yên dưới (D) (Inferior hypophyseal artery): ngoài

nhánh cấp máu cho tuyến yên (E) còn cho nhánh mấu giường dưới (Inferior

clival artery) (F) cấp máu cho màng cứng vùng dưới mấu giường và cho nhánh

nối với động mạch mấu giường phía trên của động mạch hầu lên.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!