Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên cứu biểu hiện kháng nguyên hemagglutinin (HA) tái tổ hợp của virus cúm A/H5H1 và đánh giá tinh sinh miễn dịch trên gà
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
MỞ ĐẦU
Virus cúm thể độc lực cao (Highly pathogenic avian influenza - HPAI)
H5N1 thuộc type A, họ Orthomyxoviridae, là chủng có khả năng gây tử vong cao
trên 50% gia cầm bị nhiễm. Dịch cúm gia cầm H5N1 đã xuất hiện ở nhiều quốc gia
châu Á, châu Âu, châu Phi và đang thực sự là mối đe dọa nghiêm trọng đối với toàn
cầu. Từ khi dịch cúm gia cầm H5N1 xuất hiện tới nay, thế giới đã có hơn 250 triệu
gia cầm bị tiêu hủy, gây thiệt hại nặng nề về kinh tế cho ngành chăn nuôi. Đặc biệt,
không chỉ gây bệnh trên gia cầm, virus cúm A/H5N1 còn có khả năng lây truyền từ
gia cầm sang người. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế gới, từ tháng 01/2003 đến
tháng 12/2016 đã có 856 trường hợp mắc cúm A/H5N1, trong đó 452 trường hợp tử
vong, chiếm 52,8% (www.wpro.who.int/emerging_diseases/AvianInfluenza/en).
Với độc lực mạnh, khả năng đột biến lớn, số lượng các vật chủ không ngừng tăng
lên, virus H5N1 trở thành mối đe dọa về một đại dịch xảy ra trên toàn cầu. Do đó,
việc nghiên cứu tìm ra biện pháp dự phòng và điều trị virus cúm A/H5N1 là vô
cùng cấp bách.
Dịch cúm gia cầm A/H5N1 bùng phát tại Việt Nam vào cuối năm 2003 ở các
tỉnh phía Bắc, sau đó đã nhanh chóng lan tới hầu hết các tỉnh/thành trong cả nước
chỉ trong một thời gian ngắn, hàng triệu gia cầm bị chết và tiêu hủy gây thiệt hại rất
lớn về mặt kinh tế cho ngành chăn nuôi. Sử dụng vắc xin cho gia cầm được xem là
một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để ngăn chặn sự lan truyền của virus cúm
và giảm thiểu những thiệt hại do virus cúm gây ra đối với ngành chăn nuôi. Hai loại
vắc xin thương mại đã được sử dụng rộng rãi trên thế giới để tiêm phòng cho gia
cầm là vắc xin bất hoạt và vắc xin sống nhược độc sử dụng vector virus làm dẫn
truyền. Cúm A/H5N1 vẫn là vấn đề có tính thời sự ở Việt Nam, tuy vắc xin phòng
cúm A/H5N1 đã được ứng dụng hơn 10 năm, nhưng hằng năm dịch bệnh vẫn xảy ra
và hiện nay có nguy cơ các phân type mới (H5N6, H5N2, H7N9) xâm nhập. Virus
cúm gia cầm biến đổi liên tục tạo nên những clade mới nên việc tiếp tục nghiên cứu
để có được công nghệ sản xuất vắc xin hiệu quả hơn, dễ tự động hóa hơn, cho phép
2
thích ứng nhanh với biến thể virus mới là hết sức cần thiết. Các nhà khoa học đang
nỗ lực nghiên cứu tạo ra các loại vắc xin khác như vắc xin dưới đơn vị, vắc xin
DNA, vắc xin sống nhược độc ... để đáp ứng yêu cầu phòng chống dịch cúm gia
cầm một cách triệt để. Việc nghiên cứu sản xuất kháng nguyên HA để tạo vắc xin
dưới đơn vị góp phần đa dạng hóa công nghệ sản xuất vắc xin; không phụ thuộc vào
nguồn cung cấp phôi trứng gà; cho phép phân biệt gia cầm tiêm vắc xin và gia cầm
nhiễm bệnh ngoài môi trường bằng giám sát huyết thanh; có thể sản xuất được trong
một thời gian ngắn, đáp ứng yêu cầu phòng chống dịch bệnh khi có biến chủng xảy
ra. Xuất phát từ yêu cầu và cơ sở khoa học trên, chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên
cứu biểu hiện kháng nguyên hemagglutinin (HA) tái tổ hợp của virus cúm
A/H5N1 và đánh giá tính sinh miễn dịch trên gà” với các mục tiêu:
- Biểu hiện kháng nguyên HA tái tổ hợp của virus cúm A/H5N1.
- Đánh giá tính sinh miễn dịch trên gà của protein HA tái tổ hợp, làm cơ sở
để tạo vắc xin phòng cúm A/H5N1.
Nội dung nghiên cứu của đề tài
(1) Nghiên cứu biểu hiện kháng nguyên HA trong hệ biểu hiện E. coli BL21.
- Biểu hiện gen ha1, ha1-2 trong tế bào E. coli BL21.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố nhiệt độ, IPTG đến biểu hiện gen.
- Tinh chế và kiểm tra tính kháng nguyên của protein tái tổ hợp.
(2) Nghiên cứu biểu hiện kháng nguyên HA trong tế bào nấm men P. pastoris.
- Nghiên cứu biểu hiện kháng nguyên HA dưới dạng dung hợp với Trx có vị
trí cắt của thrombin (T) và enterokinase (E) (Trx-TE-HA).
- Nghiên cứu cải biến mã bộ ba và biểu hiện kháng nguyên HA1 trong nấm
men P. pastoris.
- Nghiên cứu biểu hiện kháng nguyên HA dưới dạng dung hợp trx không có
trình tự cắt của enterokinase và thrombin.
(3) Nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố lên quá trình biểu hiện protein HA tái
tổ hợp; lên men và thu hồi protein HA tái tổ hợp.
(4) Đánh giá tính sinh miễn dịch trên gà của protein HA tái tổ hợp.
3
Đóng góp mới của luận án
Luận án là công trình mới ở Việt Nam nghiên cứu biểu hiện kháng nguyên
HA tái tổ hợp của virus cúm A/H5N1 trong E. coli và nấm men P. pastoris, làm cơ
sở để tạo vắc xin phòng cúm A/H5N1. Từ các cấu trúc thiết kế biểu hiện gen khác
nhau, với nhiều chủng biểu hiện và điều kiện biểu hiện khác nhau chúng tôi đã
chọn được chủng nấm men P. pastoris SMD1168 biểu hiện TrxHA1. Sản lượng
HA được tổng hợp trong nồi lên men đạt 84 mg/l. Hiệu giá HI trung bình huyết
thanh gà sau 2 tuần gây miễn dịch nhắc lại với 100 g TrxHA1 tái tổ hợp qua
đường tiêm dưới da cổ đạt 7-7,2 log2, hiệu giá HI sau 2 tuần gây miễn dịch nhắc
lại bằng đường nhỏ mắt mũi đạt 6,6 - 7,0 log2. Hiệu giá HI huyết thanh gà gây
miễn dịch với protein HA tái tổ hợp tương đương với hiệu giá HI huyết thanh gà
tiêm vắc xin bất hoạt Re-1.
4
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. TỔNG QUAN VỀ VIRUS CÚM A/H5N1
1.1.1. Cấu trúc virus cúm A
Virus cúm thuộc họ Orthomyxoviridae, gồm 3 type A, B, C trong đó virus
cúm type A có nhiều type huyết thanh khác nhau và chủ yếu gây bệnh cho người,
động vật như chim, gia cầm, lợn... Các hạt virus cúm A (virion) có hình cầu hoặc
hình khối đa diện, đường kính 80 -120 nm, đôi khi cũng có dạng hình sợi, khối
lượng phân tử khoảng 250 triệu Da (Hình 1.1A). Kết quả phân tích thành phần hóa
học của virion cho thấy RNA chiếm khoảng 0,8 - 1,1%, protein chiếm khoảng 70 -
74%; lipid 5 - 8% còn lại là carbonhydrate. Hạt virus có cấu tạo đơn giản gồm vỏ
(capsid), vỏ bọc ngoài (envelope) và lõi là RNA sợi đơn âm. Hệ gen virus cúm A, B có
8 sợi RNA âm (PA, PB1, PB2, HA, NA, M, NP và NS) tổng kích thước khoảng 9 kb
mã hóa cho 15 loại protein khác nhau (Hình 1.1B) (Palese, 2007; Amorij, 2008).
A B
Hình 1.1: Hình thái và cấu trúc virus cúm A
(Nguồn: WHO; Amorij, 2008)
Các đoạn PA, PB1, PB2 mã hóa các enzyme trong phức hợp polymerase
(RNA transcriptase) của virus, có độ dài ổn định và có tính bảo tồn cao. Phân đoạn
HA và NA (neuraminidase) mã hóa cho protein bề mặt của virus. Hai protein này có
tính kháng nguyên đặc trưng cho từng chủng virus cúm A. Đoạn NP mã hóa cho
5
nucleoprotein (NP) - thành phần của phức hệ phiên mã, chịu trách nhiệm vận
chuyển RNA giữa nhân và bào tương tế bào chủ. Phân đoạn M mã hóa cho protein
đệm - matrix protein của virus gồm hai tiểu phần M1 và M2 được tạo ra bởi những
khung đọc mở khác nhau của cùng một phân đoạn RNA. Protein M1 là một protein
nền, thành phần chính của virus có chức năng bao bọc RNA tạo nên phức hợp
ribonucleoprotein và tham gia vào quá trình “nảy chồi” của virus. Protein M2 là
chuỗi polypeptide ngắn, có khối lượng phân tử khoảng 11 kDa, protein M2 đâm
xuyên và nhô ra khỏi vỏ ngoài, chịu trách nhiệm tháo vỏ virus giải phóng hệ gen
virus vào bào tương tế bào chủ trong quá trình xâm nhiễm (Palese, 2007; Bouvier,
2008; Neumann, 2009).
Hiện nay, các nhà khoa học đã phát hiện ra 18 loại kháng nguyên HA (H1-
H18) và 11 loại kháng nguyên NA (N1-N11) (Tong, 2013). Trong lịch sử ghi nhận
chỉ phân type H1, H2, H3 và N1, N2 gây bệnh cho người. Gần đây phân type H5, H7,
H9 cũng gây bệnh cho người với mức độ nguy hiểm hơn (Li, 2015; Bui, 2016). Bệnh
dịch do chủng H5N1 gây ra có khả năng lây lan rất cao ở các động vật lông vũ, gây
chết hàng loạt ở chim và gia cầm (Webster, 2002; Schrauwen, 2014; Webster, 2014).
1.1.2. Chu trình tái bản của virus cúm A
Quá trình xâm nhiễm và nhân lên của virus xảy ra chủ yếu ở các tế bào biểu
mô đường hô hấp, đường tiêu hóa của cơ thể vật chủ (Nicholson, 2003; Palese,
2007; Neumann, 2009; de Graaf, 2014). Các giai đoạn của quá trình xâm nhiễm như
sau (Hình 1.2):
Giai đoạn 1 - giai đoạn hấp phụ: các hạt virus gắn với tế bào chủ thông qua
liên kết giữa các phân tử HA với các thụ thể có chứa nhóm sialic acid trên bề mặt tế
bào chủ. Virus cúm gia cầm gắn đặc hiệu với thụ thể sialic acid α 2-3 galactose
(SAα2-3Gal) còn virus cúm người gắn đặc hiệu với thụ thể sialic acid α 2-6
galactose (SAα2-6Gal) (de Graaf, 2014). Do có tính đặc hiệu với thụ thể nên virus
cúm gia cầm không thể dễ dàng lây nhiễm sang người và ngược lại, hình thành rào
cản loài, thu hẹp khả năng lây nhiễm của virus trên một hoặc một số vật chủ nhất
6
định. Ở một số động vật (như lợn, gà ...) có cả hai loại thụ thể nên có thể bị nhiễm
cả virus cúm gia cầm và virus cúm người (Schrauwen, 2014; Neumann, 2015).
Hình 1.2: Chu trình xâm nhiễm và sao chép của virus cúm A
(Nguồn: Neumann, 2009)
Trong cơ thể vật chủ cảm nhiễm, khả năng bám gắn và gây bệnh của virus
cúm còn tùy thuộc vào từng mô cơ quan. Nhìn chung, virus cúm A có tính thích
ứng lây nhiễm với biểu mô đường hô hấp và gây bệnh chủ yếu ở đường hô hấp (de
Graaf, 2014). Tuy nhiên, khả năng liên kết của virus cúm với tế bào chủ còn phụ
thuộc vào hoạt tính của neuraminidase vì trên niêm mạc đường hô hấp có một lớp
mucin bao phủ, tạo nên một hàng rào mà virus phải xuyên qua để gắn với tế bào.
Lớp mucin này chứa nhiều sialic acid hình thành một mạng lưới có tác dụng ngăn
cản virus bám vào bề mặt tế bào (Sanders, 2010). Nhờ hoạt tính sialidase phân cắt
các nhóm sialic acid mà neuraminidase giúp cho virus có thể tiếp cận với các tế bào
cảm nhiễm bên trong đường hô hấp.
Giai đoạn 2 - xâm nhập tế bào: virus xâm nhập vào tế bào chủ yếu bằng con
đường ẩm bào. Sau khi virus gắn vào tế bào, màng tế bào lõm lại hình thành túi bao
bọc virus. Túi này dần dần khép kín lại, sau đó tách khỏi màng tế bào tạo thành túi
nội bào (endosome). Để tránh bị phân hủy bởi môi trường pH thấp trong endosome,
protein M2 hoạt động mạnh, bơm ion H+
vào trong hạt virus.
7
Giai đoạn 3 - tháo vỏ virus: dòng chảy của các ion H+
từ lòng túi ẩm bào
vào hạt virus làm lớp protein nền M1 bị phá vỡ và tách khỏi phức hợp RNP. Hoạt
động của kênh ion H+
làm thay đổi cấu trúc không gian của HA và bộc lộ các
peptide chịu trách nhiệm hòa tan vỏ, nhờ đó vỏ của virus có thể dung hợp với màng
endosome và giải phóng các phức hợp RNP vào trong bào tương tế bào.
Giai đoạn 4 - tổng hợp RNA và protein virus: Phức hợp RNP được vận
chuyển vào nhân tế bào để phiên mã tạo mRNA. Phân tử mRNA được phiên mã
trong nhân từ các chuỗi RNA sợi đơn (-) của virus khi sử dụng mồi là đoạn 10-13
nucleotide cắt ra từ đầu 5’ của mRNA có gắn mũ của vật chủ, sau đó được gắn đuôi
polyA cũng lấy từ mRNA của tế bào chủ. Enzyme cắt mồi là endonuclease do virus
mang theo. mRNA mới hoàn thiện của virus ra khỏi nhân, vào bào tương để tiến
hành tổng hợp protein. Kết quả của quá trình phiên mã từ 8 đoạn RNA hệ gen tạo ra
được 15 phân tử protein.
Trong nhân tế bào, các RNA hệ gen của virus tổng hợp nên các sợi dương từ
khuôn là sợi âm của hệ gen virus, từ các sợi dương này chúng tổng hợp nên RNA hệ
gen của virus mới nhờ RNA - polymerase. Các sợi này không được adenine hóa
(gắn thêm các adenine) và gắn mũ ở đầu 5’ và 3’, chúng kết hợp với nucleoprotein
(NP) tạo thành phức hợp ribonucleoprotein hoàn chỉnh và được vận chuyển ra tế
bào chất. Đây là đặc điểm khác biệt so với các virus khác (quá trình này xảy ra
trong tế bào chất của vật chủ). Các protein PB1, PB2, PA, NP của virus sau khi
được tổng hợp sẽ được đưa vào nhân tế bào và kết hợp với RNA virus hình thành
các phức hợp RNP, sau đó các phức hợp lại được đưa trở lại bào tương. Các protein
khác (HA, NA, và M2) được glycosyl hóa ở mạng lưới nội chất và phức hệ Golgi
của tế bào.
Giai đoạn 5 - lắp ráp và giải phóng virus khỏi tế bào: sau khi trải qua cải
biến sau dịch mã, các protein HA, NA và M2 được đưa đến màng tế bào chủ và gắn
với lớp lipid kép. Khi mật độ các protein màng đủ lớn thì các phức hợp RNP và
protein M2 cũng tập hợp lại trên màng tế bào. Sau khi cả 8 phân đoạn RNA của hệ
8
gen và các thành phần khác được tập hợp đầy đủ thì các phức hợp RNP, protein vỏ
virus và protein nền M1 được lắp ráp lại với nhau để hình thành các hạt virus thế hệ
mới. Các virus mới hình thành được gắn vào màng tế bào bằng liên kết HA với
nhóm sialic acid màng tế bào. Các hạt virus sau đó được giải phóng theo cơ chế nảy
chồi khỏi màng tế bào nhờ tác dụng cắt nhóm axit sialic của neuraminidase.
1.1.3. Kháng nguyên của virus cúm A/H5N1
1.1.3.1. Kháng nguyên HA
HA là một kháng nguyên bề mặt quan trọng của virus cúm A do phân đoạn
gen ha mã hóa. Ở virus cúm A/H5N1 phân đoạn ha có kích thước 1776 bp, trong đó
vùng mã hóa cho protein H5 khoảng 1698 - 1710 bp tùy thuộc vào từng chủng virus
(Xiong, 2013; Nguyễn Thị Bích Nga, 2011). Về cấu tạo, phân tử HA có dạng
trimer, gồm 3 phân tử protein HA0 (Hình 1.3). Khối lượng của mỗi phân tử HA0 là
70 - 75 kDa. HA0 được chia thành hai tiểu đơn vị HA1 (36 kDa) và HA2 (27 kDa).
Hình 1.3: Mô hình cấu trúc bậc 3 và bậc 4 của hemagglutinin
(Nguồn: Amorij, 2008)
Tiểu phần HA1 kết thúc bằng nhóm amino, chứa một số vị trí gắn gốc
đường, vị trí gắn thụ thể trên tế bào chủ và vị trí quyết định kháng nguyên (Amorij,
2008). Phần lớn cấu trúc bậc hai của HA1 là các phiến β cuộn xoắn lại tạo thành
vùng hình cầu của phân tử HA. Tiểu phần HA2 kết thúc bằng nhóm carboxyl, chứa
Vị trí liên
kết thụ thể
Peptid
dung hợp
Vỏ virus
9
phần xuyên màng và peptit dung hợp màng. Cấu trúc bậc hai của HA2 là các đoạn
xoắn kết hợp với nhau tạo thành vùng dạng sợi, gắn với vỏ virus. Cấu trúc HA0
được bền vững nhờ cầu nối disulfide giữa tiểu phần HA1 và HA2. Protein HA được
tổng hợp dưới dạng polypeptide HA0 ở mạng lưới nội chất, tại đây chúng tập hợp
lại thành dạng trimer. Sau đó, chúng được vận chuyển tới bề mặt tế bào thông qua
bộ máy Golgi. Tại bề mặt tế bào các enzym protease của tế bào chủ phân cắt HA0
thành HA1 và HA2 (Sriwilaijaroen, 2012).
Vùng nối giữa HA1 và HA2 có chứa một hoặc một số amino acid kiềm tính
chính là vùng phân cắt hai tiểu đơn vị của protein HA0 dưới tác dụng của protease.
Trình tự amino acid vùng phân cắt HA có vai trò quyết định độc lực của virus
(Velkov, 2013). Ở các chủng virus, điển hình là H5N1 thể độc lực cao, chuỗi amino
acid kiềm tính trên vùng phân cắt HA được nhận biết bởi các protease nội bào phổ
biến, giúp virus có thể lây nhiễm và tái bản ở nhiều mô cơ quan khác nhau trong cơ
thể vật chủ và gây nên các triệu chứng toàn thân nặng nề (Perdue, 2000; Luczo,
2015). Ngược lại, vị trí phân cắt giữa hai tiểu phần HA1, HA2 ở các chủng virus thể
độc lực thấp chỉ có 1 amino acid kiềm là Arg và một số amino acid kiềm ở vị trí -3
hoặc - 4 nên chỉ chịu tác dụng của các protease ngoại bào (trypsin-like). Do đó,
virus H5N1 thể độc lực thấp chỉ có thể nhân lên ở các mô cơ quan có các enzym
này như ở đường tiêu hóa và đường hô hấp (Steinhauer, 1999; Gambotto, 2008).
Có khoảng 400 phân tử HA trên bề mặt capsid của một virus. HA có vai trò
quan trọng trong quá trình nhận diện, gắn vào tế bào chủ và khởi động quá trình
xâm nhiễm của virus vào tế bào chủ (Bender, 1999). Sự xâm nhiễm của virus được
khởi đầu bằng sự kết hợp đặc hiệu giữa HA của virus với thụ thể trên bề mặt tế bào
vật chủ, sau đó vỏ virus hòa với màng tế bào và giải phóng RNA hệ gen vào tế bào
vật chủ. Quá trình kết hợp phụ thuộc vào sự phù hợp cấu hình không gian của thụ
thể chứa sialic acid của tế bào đích với vị trí gắn với thụ thể này trên phân tử HA
của virus cúm, quyết định sự xâm nhiễm dễ dàng của virus ở các loài vật chủ khác.
Vị trí amino acid 226 (aa226) của tiểu đơn vị HA1 được xác định là vị trí quyết
định phù hợp gắn HA với thụ thể đặc hiệu của nó. Ở hầu hết các chủng virus cúm A
10
lưu hành trong tự nhiên vị trí này là glycine, thích ứng với thụ thể Gal α-2,3 sialic
acid (chứa sialic acid liên kết với nhóm hydroxyl (4-OH) của galactose ở góc
quay α-2,3) của tế bào biểu mô đường hô hấp của chim và gia cầm (vật chủ tự nhiên
của virus cúm A) (Gamblin, 2010). Ngoài ra, một số vị trí amino acid khác như
glutamine 222, glycine 224, hay cấu trúc SGVSS và NGQSGR cũng có sự liên quan
chặt chẽ đến khả năng thích ứng với thụ thể chứa sialic acid bề mặt màng tế bào chủ
(Schrauwen, 2014; Luczo, 2015).
1.1.3.2. Kháng nguyên NA
Neuraminidase (sialidase), một enzyme có bản chất là glycoprotein được gắn
trên bề mặt capsid của virus cúm A. Gen mã hóa cho protein NA có chiều dài thay
đổi theo từng phân type virus cúm A. Ở virus cúm H5N1, gen na có kích thước thay
đổi trong khoảng 1350–1410 bp (Baigent, 2001; Wagner, 2002; Keawcharoen,
2005; Nguyễn Thị Bích Nga, 2011; Xiong, 2013). NA có khối lượng phân tử
khoảng 53 kDa, có cấu trúc hình nấm, bao gồm một đầu chứa 4 tiểu đơn vị và có
đoạn peptide kị nước cắm sâu vào vỏ virus, 4 tiểu đơn vị tạo thành trung tâm hoạt
động của enzyme. NA còn chứa một chuỗi polypeptide đơn hướng về phía đối diện
với kháng nguyên HA. Chuỗi này gồm 6 amino acid có tính bảo thủ cao, chứa các
amino acid ưa nước (Castrucci, 1993; Shtyrya, 2009).
Enzyme NA cắt đứt liên kết giữa gốc sialic acid của màng tế bào nhiễm với
phân tử carbohydrate của protein HA, giải phóng hạt virus ra khỏi màng tế bào
nhiễm, đẩy nhanh sự lây nhiễm của virus trong cơ thể vật chủ và ngăn cản sự tập
hợp của các hạt virus mới trên màng tế bào. Mặt khác, NA tham gia vào phân cắt
liên kết này trong giai đoạn “hòa màng”, đẩy nhanh quá trình “cởi áo” (uncoating)
giải phóng hệ gen của virus vào trong bào tương tế bào nhiễm, giúp cho quá trình
nhân lên của virus diễn ra nhanh hơn (Wagner, 2002). Ngoài ra, NA còn phân cắt
các liên kết glycoside, giải phóng neuraminic acid làm tan, loãng màng nhầy bề mặt
biểu mô đường hô hấp tạo điều kiện cho virus nhanh chóng tiếp cận tế bào biểu mô
và thoát khỏi các chất ức chế không đặc hiệu. Cùng với vai trò của kháng nguyên
HA, cả 3 khâu tác động trên của NA đều tham gia làm gia tăng độc lực gây bệnh
11
của virus cúm A ở cơ thể vật chủ. Do đó, NA là đích tác động của các thuốc hóa
dược ức chế virus không đặc hiệu hiện nay, ví dụ Oseltamivir (biệt dược là Tamiflu)
phong tỏa enzyme NA, ngăn cản sự giải phóng hạt virus mới khỏi các tế bào đích,
bảo vệ cơ thể (Aoki, 2007).
NA là một kháng nguyên bề mặt của virus, tham gia kích thích hệ thống
miễn dịch của cơ thể chủ, sinh ra kháng thể đặc hiệu với kháng nguyên NA của các
chủng virus đương nhiễm (Kilbourne, 2004; Rockman, 2013). Tương tự kháng
nguyên HA, hàm lượng kháng nguyên NA trên bề mặt virus khá lớn, tỷ lệ HA:NA
là 4:1. Nghiên cứu ảnh hưởng của kháng nguyên này trong vắc xin phòng cúm trên
mô hình chuột thực nghiệm cho thấy NA không có khả năng bảo hộ hoàn toàn cơ
thể chống lại virus cúm nhưng lại có khả năng hạn chế hữu hiệu sự phát triển của
virus. Vì vậy, kháng nguyên NA được sử dụng như một nhân tố bổ trợ giúp tăng
khả năng bảo vệ của vắc xin (Kilbourne, 2004; Doyle, 2013; Eichelberger, 2015).
1.1.3.3. Kháng nguyên M2
Phân đoạn M có kích thước 1027 bp, mã hóa cho protein nền M1 của virus
và protein kênh ion M2. Hai protein này được mã hóa bởi những khung đọc mở
khác nhau của phân đoạn M. Các phân tử M1 liên kết với nhau thành một lớp kín
lót trong vỏ lipit kép, cùng với HA, NA và M2 hình thành nên vỏ capsid bao bọc
các phức hợp RNP. M2 là một protein xuyên màng bao gồm 97 amino acid với 3
vùng: vùng đầu N gồm 24 amino acid, nằm ở phía ngoài màng; vùng xuyên màng
gồm 19 amino acid; vùng nằm ở phía bào tương gồm 54 amino acid. Khối lượng
phân tử M2 khoảng 15 kDa. Chức năng của protein M2 là tạo kênh ion H+
cần thiết
cho khả năng lây nhiễm của virus ( Holsinger, 1994; Huang, 2008; Wang, 2011). Sự
hình thành nên kênh ion có vai trò quan trọng trong quá trình xâm nhiễm của virus,
tạo điều kiện để virus phá vỡ vỏ endosome, giải phóng RNP vào bào tương tế bào
chủ. Protein M2 là đích của các thuốc kháng virus dòng adamantane (gồm
amantadine và rimantadine). Các thuốc này gắn với protein M2 làm protein mất
chức năng hình thành kênh ion, do đó ngăn chặn quá trình giải phóng RNP vào bào
tương tế bào nhiễm (Arinaminpathy, 2008). Tuy nhiên, một số đột biến thay thế
12
amino acid trên protein M2 của virus H5N1 gây ra hiện tượng kháng adanmatane
như: L261/F; V27/A/I/G; A30/S/T; S31N...(Cheung, 2006; Wang, 2013).
1.1.4. Các phương thức biến đổi kháng nguyên của virus cúm A
1.1.4.1. Hiện tượng lệch kháng nguyên
Lệch kháng nguyên là các đột biến điểm xảy ra ở các phân đoạn gen/hệ gen
của virus. Virus cúm A kí sinh nội bào bắt buộc, không có cơ chế đọc và sửa bản
sao trong quá trình phiên mã và sao chép ở nhân tế bào chủ. Sự thiếu hụt enzyme
sửa chữa dẫn đến các enzyme sao chép phụ thuộc RNA có thể thêm, làm mất hoặc
thay thế một hay nhiều nucleotide trong phân tử RNA chuỗi đơn mới của virus.
Hiện tượng này thường xảy ra ở các phân đoạn HA và NA, gây ra một hoặc một số
thay đổi sau: (1) tạo ra các bộ mã tổng hợp các amino acid mới; (2) làm thay đổi cấu
trúc dẫn đến thay đổi đặc tính của protein đó; (3) làm tăng mức độ glycosyl hóa
trong cấu trúc chuỗi polypeptide kháng nguyên; (4) tạo ra một biến thể virus mới có
độc tính và tính kháng nguyên mới trở thành chủng được chọn lọc trong quần thể do
chúng có khả năng nhiễm vào vật chủ chưa miễn dịch. Tần suất xảy ra đột biến
điểm rất cao, cứ 10.000 nucleotide (tương ứng với độ dài của RNA hệ gen của virus
cúm A) thì có 1 nucleotide bị đột biến (Webster, 1998). Như vậy, gần như mỗi hạt
virus mới được sinh ra đều chứa đựng ít nhất một đột biến điểm trong hệ gen của nó
và các đột biến này được tích lũy qua nhiều thế hệ virus và sẽ làm xuất hiện phân
type mới có những đặc tính kháng nguyên mới (Webster, 1998; Macken, 2006;
Chen, 2008). Trên phân tử HA của virus cúm A/H5N1 có 3 vị trí kháng nguyên
thường xuyên bị đột biến tạo nên các kháng nguyên mới, giúp virus thoát khỏi hệ
miễn dịch của vật chủ đó là các đột biến ở vị trí amino acid 136-141; vị trí amino
acid 152-153 và vị trí amino acid 124-129 (Smirnov, 2004; Hanson, 2016). Hiện
tượng lệch kháng nguyên là nguyên nhân gây ra các đợt dịch nhỏ, tản phát.
1.1.4.2. Hiện tượng trộn kháng nguyên
Hiện tượng trộn kháng nguyên xảy ra khi hai hay nhiều chủng virus cúm A
khác nhau, với nhiều đoạn RNA khác biệt nhau về mặt di truyền cùng lúc xâm
13
nhiễm vào một cơ thể vật chủ. Các phân đoạn gen của virus hoán vị với nhau. Kết
quả là tạo ra biến chủng virus mới có thể lây nhiễm vào vật chủ mới mà bố mẹ
chúng không có khả năng gây nhiễm hoặc gia tăng độc lực gây bệnh. Do đó, trộn
kháng nguyên được coi là nguyên nhân gây ra các đại dịch cúm (Macken, 2006;
Chen, 2008). Các virus HPAI H5N1 ở khu vực Đông Nam Á đều có gen HA và
NA có nguồn gốc từ chủng gốc Gs/Gd/1/96 trong khi 6 gen còn lại được lấy từ các
nguồn khác nhau do hiện tượng trao đổi và tích hợp các phân đoạn gen. Chính
hiện tượng trộn kháng nguyên này đã tạo virus H5N1 gây ra đại dịch ở người năm
1997 và tiếp sau đó các dịch cúm gia cầm năm 2001 và 2002 (Chen, 2008).
Năm 1997, ở Hồng Kông virus cúm A/H5N1 lây trực tiếp từ gà sang người
đã giết chết 6 trên tổng số 18 người bị nhiễm. Virus này tiếp tục lan truyền sang
ngỗng ở miền Nam Trung Quốc và thay thế ngay các kiểu gen khác gây bệnh ở gà
nhưng không gây bệnh ở vịt. Năm 2001, 6 kiểu gen đã được xác định là A, B, C,
D, E và X0. Các kiểu gen này đều giống nhau về đột biến xóa 5 amino acid (vị trí
80-84) của protein NS1, ngoại trừ kiểu gen chủng Gs/Gd/1/96 và kiểu gen X0.
Năm 2002, có 8 kiểu gen mới xuất hiện là V, W, X1, X2, X3, Y, Z và Z+
, trong
khi các chủng A, C, D và E không thấy nữa. Kiểu gen HPAI H5N1 trong giai đoạn
này mang đột biến mất 5 amino acid của NS1 và đột biến mất 20 amino acid (49-
68) trên vùng thân của NA. Đến năm 2003, thêm 3 kiểu hình chính nữa là Y, Z+ và
V được phát hiện. Kiểu gen G được hình thành do sự trao đổi và tích hợp giữa
kiểu gen Z và W năm 2004. Trong số các kiểu gen đã xuất hiện, kiểu gen Z chiếm
ưu thế ở khu vực Đông Nam Á trong suốt giai đoạn từ 2003 đến nay (Chen, 2006).
1.1.4.3. Hiện tượng glycosyl hóa
Glycosyl hóa là sự gắn kết một chuỗi carbonhydrate vào amino acid
asparagine (N) ở một số vị trí nhất định trong chuỗi polypeptide HA hay NA, hay
một số polypeptide khác của virus cúm. Thông thường chuỗi carbohydrate được gắn
tại vị trí asparagine có motif N-X-S/T (N = asparagine; X = amino acid bất kì, trừ
proline; S/T = Serine hoặc Threonine) (Tate, 2014). Nếu hiện tượng lệch kháng