Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010 .DOC
MIỄN PHÍ
Số trang
120
Kích thước
593.9 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
844

Nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010 .DOC

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Luận văn tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển

LỜI MỞ ĐẦU

Bước vào thế kỷ XXI, nền kinh tế Việt Nam có nhiều khởi sắc sau 20

năm tiến hành công cuộc đổi mới. Từ chỗ nền kinh tế không đáp ứng đủ

nhu cầu cho nhân dân, đến nay Việt Nam được đánh giá là nước có mức

tăng trưởng kinh tế cao nhất khu vực Đông Nam Á và đứng thứ hai thế giới

sau Trung Quốc. Thành tựu to lớn trên có được một phần xuất phát từ

đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong việc tập trung mọi nguồn

lực cho đầu tư phát triển các ngành trọng điểm, mũi nhọn, trong đó có

ngành công nghiệp Dệt - May.

Với lợi thế về lao động cùng các chính sách khuyến khích đầu tư trong

nước, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam…ngành Dệt May Việt

Nam đã có những bước phát triển khá nhanh. Trong hơn 5 năm qua, Dệt

May Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ với tốc độ phát

triển bình quân ở mức hai con số và trở thành một trong những ngành kinh

tế xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Các sản phẩm dệt may Việt Nam đã

bước đầu tạo được vị thế trên thị trường trong và ngoài nước. Dệt May hiện

đang sử dụng gần 5% lao động toàn quốc (hơn 20% lao động trong khu vực

công nghiệp), đóng góp 8% GDP, kim ngạch xuất khẩu luôn đứng thứ hai

(sau xuất khẩu dầu thô) và đóng góp hơn 16 % trong kim ngạch xuất khẩu

của cả nước.

Tuy nhiên đằng sau tốc độ tăng trưởng cao trong suốt những năm qua,

ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đã và đang mắc phải rất nhiều

những hạn chế. Nguyên phụ liệu dệt may nhập khẩu đến 90%, năng suất

lao động thấp, vốn đầu tư sử dụng không hiệu quả trong khi hai ngành Dệt

và May phát triển thiếu cân đối một cách trầm trọng làm cho chất lượng

tăng trưởng yếu kém. Hơn nữa, hiện nay Việt Nam đang trên chặng nước

rút gia nhập WTO, Dệt May Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội mới nhưng

cũng rất nhiều những thách thức khi mà nội lực không thể đảm bảo cho

một sự tăng trưởng có chất lượng cao.

Lê Thị Nhật Phương - Lớp KTPT 44A Trang 1

Luận văn tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển

Mục tiêu phát triển ngành Công nghiệp Dệt May đến năm 2010 của

Chính phủ là nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập kinh tế khu vực và

thế giới, từng bước đưa ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam thành ngành

công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu, tăng nguồn ngoại tệ, góp

phẩn tăng trưởng kinh tế, thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong

nước, tạo nhiều việc làm cho xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại

hoá đất nước.

Để thực hiện những mục tiêu nói trên thì việc nghiên cứu thực trạng chất

lượng tăng trưởng ngành Dệt May Việt Nam đồng thời đưa ra các giải pháp

nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành Dệt May đóng một vai trò

quan trọng. Nó phù hợp với yêu cầu thực tế của ngành, trong bối cảnh Việt

Nam chuẩn bị bước vào một giai đoạn lịch sử mới của quá trình hội nhập

kinh tế quốc tế, gia nhập WTO.

Xuất phát từ thực tế yêu cầu đó, Luận văn Tốt nghiệp này đã tập trung

nghiên cứu đề tài “ Nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành Công nghiệp

Dệt May Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010 ”. Đề tài được thực hiện với mục

đích nghiên cứu lý luận và ứng dụng vào thực tiễn ngành Dệt May Việt

Nam, từ đó đề xuất các quan điểm, phương hướng và giải pháp để nâng cao

chất lượng tăng trưởng cho ngành Dệt May trong thời gian tới. Các phương

pháp nghiên cứu được sử dụng trong Chuyên đề bao gồm phương pháp

phân tích, tổng hợp, thống kê mô tả, suy luận logic…

Kết cấu Luận văn bao gồm những phần sau:

- Chương I: Đánh giá chất lượng tăng trưởng ngành Dệt May

- Chương II: Thực trạng chất lượng tăng trưởng ngành Dệt May Việt

Nam giai đoạn 2001 – 2005

- Chương III: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng

tăng trưởng ngành Dệt May Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010.

Chuyên đề được hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo GS.TS

Vũ Thị Ngọc Phùng, giảng viên Khoa Kế hoạch và Phát triển - trường Đại

Lê Thị Nhật Phương - Lớp KTPT 44A Trang 2

Luận văn tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển

học Kinh tế Quốc dân và chú Hà Ngọc Quang, Trưởng Phòng Kinh tế

Ngành - Vụ Tổng hợp Kinh tế quốc dân - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Hà Nội, ngày…tháng…năm…

Sinh viên

Lê Thị Nhật Phương

Lê Thị Nhật Phương - Lớp KTPT 44A Trang 3

Luận văn tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển

CHƯƠNG I. ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG

NGÀNH DỆT MAY

I. VAI TRÒ VÀ VỊ TRÍ CỦA NGÀNH DỆT MAY TRONG

QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI

1. Vai trò của ngành Dệt May

Dệt May là một ngành sản xuất vật chất thuộc nhóm ngành công nghiệp

nhẹ sản xuất các sản phẩm đáp ứng nhu cầu may mặc của con người như

sợi, vải, quần áo. Ngành Dệt May gắn liền với nhu cầu thiết yếu của mỗi

người. Vì thế, ngành này đã hình thành và đi lên cùng với sự phát triển ban

đầu của chủ nghĩa tư bản. Đây cũng là ngành yêu cầu vốn đầu tư không

lớn, thu hút nhiều lao động với kỹ năng trung bình và có điều kiện mở rộng

thương mại quốc tế…Do vậy, trong quá trình công nghiệp hoá các nước tư

bản đầu tiên như Anh, Pháp, Italia…đến các nước Nics (Hàn Quốc, Đài

Loan…) ngành Dệt may đều có vị trí quan trọng. Năm 1994, tổng kim

ngạch xuất khẩu ngành Dệt May thế giới đạt 250 tỷ USD và trong 10 năm

tới sẽ tăng 60% đối với may mặc và 34% đối với hàng dệt (theo dự báo của

WTO), trong đó châu Á chiếm khoảng 40% giá trị xuất khẩu. Ngành Dệt

May đã và đang đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của nhiều nước,

đặc biệt là các nước đang phát triển. Song hiện nay, do nhiều yếu tố như

thiếu lao động, tiền công cao…dẫn đến hiệu quả sản xuất thấp ở các nước

phát triển nên các nước này đã và đang chuyển ngành công nghiệp Dệt

May sang các nước đang phát triển.

Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, ngành Dệt May giữ

một vai trò then chốt trong nền kinh tế.

Thứ nhất, ngành Dệt May khai thác những lợi thế vốn có của Vịêt Nam.

Truyền thống sản xuất hàng dệt may lâu đời trải qua nhiều thế hệ đã đúc rút

cho người lao động Việt Nam nhiều kinh nghiệm quý báu trong quá trình

tạo ra một sản phẩm dệt may. Nguồn lao động rẻ, dồi dào cộng với bản chất

Lê Thị Nhật Phương - Lớp KTPT 44A Trang 4

Luận văn tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển

bền bỉ, cần cù, cẩn thẩn rất phù hợp với đặc trưng của ngành dệt may.

Thứ hai, ngành Dệt May tạo ra một khối lượng lớn công ăn việc làm

cho người lao động, chủ yếu là lao động phổ thông. Nó góp phần thu hút

một số lượng lao động dư thừa trong nền kinh tế (chủ yếu là lao động ở

nông thôn), giải quyết phần nào nạn thất nghiệp mà kéo theo đó là các tệ

nạn xã hội, những bất ổn về an ninh trật tự. Ngày nay, hầu hết các nước

phát triển nắm giữ những khâu quan trọng đòi hỏi trình độ công nghệ cao

trong ngành công nghiệp dệt may. Theo sự phân công lao động quốc tế, các

nước đang phát triển đảm nhiệm phần gia công, ráp nối nguyên phụ liệu,

những công việc không đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao nhưng cần một lượng

lao động lớn. Tính đến năm 2000, hơn 100.000 doanh nghiệp thuộc mọi

thành phần kinh tế đang hoạt động trong lĩnh vực Dệt May Việt Nam đang

tạo việc làm cho gần 2 triệu lao động và năm 2005 là gần 5 triệu lao động.

Tương lai, ngành Dệt sẽ thu hút đầu tư, tạo thêm nhiều công ăn việc làm

cho người lao động, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân và tăng

thu nhập quốc dân.

Thứ ba, ngành Dệt May hiện là thị trường tiêu thụ vải và phụ liệu rất

lớn cho ngành Dệt Việt Nam với nhu cầu khoảng trên 500 triệu mét vải mỗi

năm. Trong khi đó sản xuất vải nội địa chưa đáp ứng được yêu cầu về chất

lượng và chủng loại mẫu mã nên phải nhập khẩu từ bên ngoài.

Thứ tư, Dệt May là ngành có đóng góp lớn vào việc tăng kim ngạch

xuất khẩu, thu hút ngoại tệ cho đất nước. Từ năm 1992 đến nay, kim ngạch

xuất khẩu của ngành Dệt may liên tục tăng với tốc độ cao và là một trong

10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của cả nước và đứng thứ hai về giá trị sau

dầu thô. Năm 1995 kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May Việt Nam mới đạt

800 triệu USD, đến 2001 con số này tăng lên gần 2 tỷ USD (chiếm 24%

tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước), năm 2002 xuất khẩu đạt trên 2,7

tỷ USD.

Thứ năm, ngành dệt may góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Dệt

Lê Thị Nhật Phương - Lớp KTPT 44A Trang 5

Luận văn tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển

May là một ngành, một bộ phận cấu thành của nền công nghiệp Việt Nam.

Sự phát triển của công nghiệp Dệt May có tác động tích cực đến sự chuyển

dịch cơ cấu ngành, cơ cấu vùng kinh tế Việt Nam. Ngành Dệt May phát

triển kéo theo sự phát triển của nhiều ngành kinh tế khác. Trước tiên là việc

chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng ở một số vùng trồng nguyên liệu phục

vụ cho dệt may như đay, bông, dâu, tằm…Do đó, nó đòi hỏi ngành nông

nghiệp phát triển theo chiều hướng phá vỡ thế độc canh, chỉ trồng cây

lương thực, hoa màu. Sau đó là tác động đến việc phát triển những ngành

sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành may, và ngành cơ khí cung cấp máy

móc thiết bị cho ngành Dệt May. Từ đó góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh

tế các vùng. Vùng có ngành sản xuất Dệt May phát triển sẽ kéo theo sự

phát triển của các ngành sản xuất phụ trợ cho ngành Dệt May và cả những

ngành sử dụng sản phẩm của ngành Dệt May như giày da, nội thất, xây

dựng…từ đó tăng tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu nền kinh tế.

Thứ sáu, với kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May năm 2002 đạt trên

2,7 tỷ USD, ngành Dệt May Việt Nam đang góp phần thúc đẩy quá trình

hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

Có thể khẳng định: Với lợi thế sử dụng được nhiều lao động, giải

quyết công ăn việc làm cho người lao động, khả năng đóng góp lớn vào

xuất khẩu, tạo điều kiện quân bình cán cân thu chi ngoại tệ theo hướng tích

cực, ngành Dệt May đã giữ một vai trò then chốt, chẳng những trong nền

kinh tế các nước đang phát triển mà vẫn tiếp tục giữ vai trò quan trọng cả

trong những nước phát triển. Đặc biệt góp phần chuyển dịch cơ cấu và tăng

trưởng kinh tế ổn định kinh tế, chính trị, xã hội.

2. Vị trí của ngành Dệt May

Trong đường lối phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, Công nghiệp

Dệt May luôn được Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm và đặt vào vị trí

quan trọng trong các chính sách phát triển chung của công nghiệp sản xuất

hàng tiêu dùng.

Lê Thị Nhật Phương - Lớp KTPT 44A Trang 6

Luận văn tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển

Trước hết Dệt May Việt Nam được khẳng định là ngành giữ vị trí hàng

đầu, một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn của nước ta trong quá

trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để đạt được mục tiêu đưa

nước ta trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 cần phải có tỷ lệ

tích luỹ lớn, tạo điều kiện cho quá trình đổi mới công nghệ. Và Dệt May là

một trong những ngành mang trọng trách đáp ứng yêu cầu đó. Lịch sử quá

trình công nghiệp hoá của các nước trên thế giới đã cho thấy rõ vị trí quan

trọng của ngành Dệt May trong thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hoá,

bắt đầu từ công nghiệp Dệt May nước Anh. Các nước công nghiệp lớn đều

dùng lợi thế sử dụng nhiều lao động của ngành Dệt May làm bàn đạp phát

triển công nghiệp. Việt Nam sẽ không phải là một ngoại lệ. Tính chất mũi

nhọn của ngành Dệt May được luận giải ở hai tiêu chuẩn chính là năng lực

tạo công ăn việc làm cao và khả năng mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn. Bên

cạnh đó, việc ưu tiên phát triển ngành này còn phù hợp với xu hướng

chuyển dịch cơ cấu đang diễn ra trong khu vực. Hiện nay, một số cường

quốc xuất khẩu hàng may mặc trong khu vực cũng như trên thế giới như

Thái Lan đang từng bước nhường thị trường cạnh tranh này vì chi phí lao

động tăng lên. Việt Nam có điều kiện để trở thành cường quốc mới trong

lĩnh vực này do chi phí lao động thấp và các cơ sở thị trường đã được

chuẩn bị và tiếp cận. Việc lực chọn may gia công xuất khẩu trong bối cảnh

đó cho phép thu hút mạnh mẽ nguồn vốn và kỹ thuật của các nước đang có

nhu cầu chuyển giao cơ cấu.

Ngoài ra ngành Dệt May được coi là ngành giữ vị trí nòng cốt trong

chiến lược sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam. Từ năm 1991 đến nay,

kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt may không ngừng tăng lên. Tốc độ tăng

trưởng bình quân giá trị sản lượng hàng dệt may giai đoạn 1992-1998 là

43,5%/năm. Tỷ trọng hàng dệt may xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất

khẩu của nước ta luôn tăng từ 7,6% năm 1991 đến 15% năm 98. Trước tiến

trình hội nhập kinh tế quốc tế không ngừng được nâng cao và mở rộng,

Lê Thị Nhật Phương - Lớp KTPT 44A Trang 7

Luận văn tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển

đặc biệt trong thời kỳ sắp tới, ngành Dệt May Việt Nam ngày càng khẳng

định vai trò là ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu, góp

phần tăng trưởng kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

II. ĐẶC ĐIỂM NGÀNH DỆT MAY

1. Đặc điểm về sản phẩm

Sản phẩm của ngành dệt may không chỉ là quần áo, vải vóc và các vật

dụng quen thuộc như khăn bàn, khăn tắm, chăn mền, nệm, rèm, thảm, đệm

ghế, ô dù, mũ nón v.v. mà còn cần thiết cho hầu hết các ngành nghề và sinh

hoạt: lều, buồm, lưới cá, cần câu, các loại dây nhợ, dây thừng, dây chão,

các thiết bị bên trong xe hơi, xe lửa, máy bay, tàu bè (một chiếc xe hơi

trung bình dùng đến 17 kí sợi vải), vòng đai cua-roa, vỏ săm lốp, ống dẫn,

bao bì, và nói chung mọi vật liệu dùng để đóng gói, bao bọc, để lót, để lọc,

để cách nhiệt, cách âm, cách điện, cách thuỷ, và cả những dụng cụ y khoa

như chỉ khâu và bông băng. Có thể hiểu tại sao ngành dệt may đã đi liền

với sự phát triển của các nước công nghiệp, cùng với sắt thép là hai ngành

vừa được ưu tiên thừa hưởng những phát minh kỹ thuật vừa là động cơ

chuyển biến cả nền kinh tế từ thủ công sang công nghiệp trong thời kỳ cách

mạng kỹ nghệ. Điều này cũng giải thích tại sao các nước công nghiệp vẫn

quyết tâm bảo vệ ngành dệt may nội địa trước sự cạnh tranh của các nước

nghèo, từ thập niên 1970 trở đi, khi các nước này tập trung xây dựng ngành

này thành trọng điểm của chiến lược phát triển. Và tại sao đó cũng là một

trong những mối tranh chấp căng thẳng từ nhiều năm trong quan hệ thương

mại giữa các nước giàu và nghèo.

2. Đặc điểm về kỹ thuật sản xuất

Dệt may là một trong những hoạt động có từ xưa nhất của con người.

Sau thời kỳ ăn lông ở lỗ, lấy da thú che thân, từ khi biết canh tác, loài

người đã bắt chước thiên nhiên, đan lát các thứ cỏ cây làm thành nguyên

liệu. Trải qua 5 nghìn năm hình thành và phát triển, các kỹ thuật may dệt đã

Lê Thị Nhật Phương - Lớp KTPT 44A Trang 8

Luận văn tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển

mau chóng đạt mức độ tinh vi, có khi thành cả nghệ thuật. Nguyên liệu của

ngành dệt may chủ yếu bắt nguồn từ thiên nhiên, lấy từ cây cỏ như các sợi

bông, sợi đay (jute), sợi gai dầu (hemp), sợi lanh, hay từ thực vật như da,

sợi len, tơ tằm…Ngày nay, với khoa học kỹ thuật hiện đại, con người đã

sáng tạo ra nhiều loại sợi nhân tạo, sợi tổng hợp với ưu điểm là có thể sản

xuất hàng loạt với giá rẻ. Tuy nhiên vì dầu hoả là nguyên liệu chính của sợi

hoá học và do giá dầu hoả ngày càng tăng nên khuynh hướng thay thế các

sợi tự nhiên bằng sợi hoá học cũng chậm lại và ngày nay sợi tự nhiên, chủ

yếu là bông, vẫn tồn tại trên thị trường, và sợi hóa học chỉ chiếm đa số với

khoảng 60% .

Công nghiệp dệt may so với các ngành công nghiệp khác, đặc biệt công

nghiệp nặng có suất đầu tư thấp hơn nhiều lần, chỉ bằng 1/10 so với ngành

điện, 1/15 so với ngành cơ khí và 1/20 so với ngành luyện kim. So sánh

ngay trong ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, để tạo ra một chỗ

làm việc mới ngành công nghiệp dệt may chỉ cần đầu tư khoảng 1000

USD, trong khi đó suất đầu tư của ngành giấy là gần 3.000 USD. Bên cạnh

đó, do đặc thù sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong thời gian ngắn nên thời

hạn thu hồi vốn đối với ngành Dệt là 12-15 năm, ngành May là 5-7 năm,

trong khi đó đối với các ngành công nghiệp khác, thời gian thu hồi vốn là

15 năm, thậm chí hàng chục năm như công nghiệp thép chẳng hạn. Do đặc

điểm về công nghệ sản xuất không quá phức tạp, lao động của ngành Dệt

May lại dễ đào tạo nên việc tổ chức sản xuất các doanh nghiệp vừa và nhỏ

rất phù hợp với điều kiện địa lý, kinh tế và xã hội của các quốc gia nhỏ bé

như Việt Nam.

Đối với ngành Dệt May Việt Nam, truyền thống làng nghề, truyền thống

văn hóa là một yếu tố tác động khá lớn đến đặc điểm kỹ thuật sản xuất của

ngành. Lịch sử cho thấy, người dân Việt Nam có truyền thống lâu đời về

Dệt May. Từ thời phong kiến đã hình thành nên các làng nghề thủ công và

các tổ chức công nghiệp. Các làng Dệt ở ven Hồ Tây ngày nay như Trích

Lê Thị Nhật Phương - Lớp KTPT 44A Trang 9

Luận văn tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển

Sài, Yên Thái, Nghĩa Đô đã nổi tiếng ngay từ triều Lý Công Uẩn (năm

1010). Các vùng nuôi tằm tại Hưng Yên, Thái Bình…; trồng bông tại các

vùng cao nguyên miền núi phía Bắc Việt Nam và một số tỉnh như Ninh

Thuận, Đồng Nai.. cũng được hình thành từ rất sớm. Năm 1989 đánh dấu

sự phát triển chính thức của ngành công nghiệp Dệt tại Việt Nam kể từ khi

người Pháp tiến hành xây dựng Khu công nghiệp dệt tại Nam Định.

Hiện nay song song với sự phát triển của các công ty dệt may trong

nước, các làng nghề Dệt May truyền thống của Việt Nam vẫn không ngừng

được bảo tồn và phát triển. Nghề dệt vải không ngừng được cải tiến và phát

triển mạnh mẽ. Từ những sản phẩm lụa mộc mạc ban đầu ngày nay đã có

những mặt hàng độc đáo, cao cấp như gấm, lụa, the, lĩnh…mịn, óng, mềm

mại, với màu sắc và hoa văn sinh động, tinh tế… Mặt hàng vải thổ cẩm dệt

thủ công, vải tơ lụa cũng không ngừng được nâng cao về chất lượng, phong

phú về chủng loại, màu sắc và hoa văn…được các bạn hàng trong nước

cũng như quốc tế ưa thích.

III. ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG NGÀNH

DMVN

1. Khái niệm về chất lượng tăng trưởng

Tăng trưởng hiện nay là một trong những mục tiêu hàng đầu của mọi

nền kinh tế cũng như của các ngành bộ phận. Tăng trưởng là sự gia tăng về

thu nhập của nền kinh tế hay của một bộ phận trong nền kinh tế ấy trong

một thời kỳ nhất định, thường là một năm. Tuy nhiên ngày nay người ta

nhìn nhận khái niệm tăng trưởng kinh tế không chỉ ở mặt định lượng được

biểu hiện ở quy mô, tốc độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển, mà

còn nhấn mạnh bản chất của tăng trưởng kinh tế thông qua khái niệm

“Chất lượng tăng trưởng”.

Hiện nay chưa có một khái niệm chính thống nào về chất lượng tăng

trưởng và khái niệm này vẫn gây nhiều tranh cãi. Mặc dù người ta nhắc đến

Lê Thị Nhật Phương - Lớp KTPT 44A Trang 10

Luận văn tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển

khái niệm chất lượng tăng trưởng ngày một thường xuyên hơn nhưng chưa

ai định nghĩa một cách chính xác và cụ thể chất lượng tăng trưởng là gì,

cũng như thước đo chất lượng tăng trưởng. Có nhiều cách hiểu chất lượng

tăng trưởng khác nhau. Nhiều người muốn dùng đến chỉ số ICOR (hệ số

mức gia tăng của đầu vào so với đầu ra) để làm thước đo, tuy nhiên chỉ số

này chỉ phản ánh một phần chất lượng tăng trưởng thông qua hiệu quả của

đầu tư mà thôi. Ở một thái cực khác, có người nói đến chất lượng tăng

trưởng đồng nghĩa với tăng trưởng bền vững bao gồm sự bền vững về xã

hội, về kinh tế, về môi trường v.v…Ngoài ra còn có quan điểm cho rằng

xem xét chất lượng tăng trưởng phải dựa trên chỉ số phát triển con người

(HDI) hay nói đến các vấn đề xã hội kèm theo. Có quan điểm nói chất

lượng là phải giữ được bản sắc. Báo cáo chất lượng tăng trưởng năm 1997

của Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) còn kèm theo vấn đề

về tạo việc làm cho người dân.

Luận văn xin đưa ra một cách nhìn khác về khái niệm chất lượng tăng

trưởng. Chất lượng tăng trưởng được hiểu theo hai nghĩa, nghĩa rộng và

nghĩa hẹp.

Chất lượng tăng trưởng theo nghĩa hẹp phản ánh sự biến động về cơ

cấu bên trong tạo thành bản chất của sự tăng trưởng và thể hiện được hiệu

quả trong sự vận động của quá trình tăng trưởng đó trong một hoàn cảnh,

giai đoạn nhất định. Thông qua khái niệm theo nghĩa hẹp này có thể thấy,

giống như bao hiện tượng khác, tăng trưởng cũng có mặt lượng và mặt

chất. Mặt lượng thể hiện ở tốc độ tăng trưởng trong từng thời kỳ, còn mặt

chất thể hiện tính hiệu quả, tính hiện đại, tính bền vững, và tính cân đối bên

trong quá trình tăng trưởng.

Chất lượng tăng trưởng theo nghĩa rộng hơn còn thể hiện mối liên hệ

qua lại giữa ba lĩnh vực: quá trình tăng trưởng về mặt kinh tế, các vấn đề về

xã hội và môi trường. Đây chính là cách hiểu chất lượng tăng trưởng đồng

nghĩa với tăng trưởng bền vững. Lâu nay ta vẫn nói tốc độ tăng trưởng cao.

Lê Thị Nhật Phương - Lớp KTPT 44A Trang 11

Luận văn tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và Phát triển

Nhưng vấn đề đặt ra là duy trì tốc độ này được bao lâu, nguồn tăng trưởng

ấy do đâu mà có và suy cho đến cùng, liệu tốc độ tăng trưởng cao có đảm

bảo một cuộc sống no đủ cho người dân.

Từ cách hiểu chất lượng tăng trưởng theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, có

thể thu hẹp lại khái niệm chất lượng tăng trưởng trong phạm vi từng ngành.

Đối với ngành Dệt May, khi xem xét quá trình tăng trưởng, người ta không

chỉ quan tâm tới tốc độ tăng của sản lượng, của giá trị sản xuất hay giá trị

xuất khẩu; mà còn quan tâm nhiều đến chất lượng tăng trưởng ngành dệt

may, tức xem xét sự vận động của các yếu tố nội tại bên trong như tỷ trọng

chi phí trung gian trong giá trị sản xuất, việc sử dụng lao động hay nguồn

vốn đầu tư, tương quan giữa hai ngành Dệt và May; hay theo nghĩa rộng là

tác động của quá trình tăng trưởng tới môi trường và tới cuộc sống của

người lao động.

2. Một số tiêu chí đánh giá chất lượng tăng trưởng ngành Dệt May

2.1 Hiệu quả trong sử dụng chi phí trung gian

Chi phí trung gian là một bộ phận cấu thành của giá trị sản xuất bao

gồm toàn bộ chi phí thường xuyên về vật chất (nguyên vật liệu, nhiên liệu,

động lực, chi phí vật chất khác) và dịch vụ (công tác phí, chi phí bưu điện,

chi phí vận tải thuê ngoài, thuê quảng cáo, phòng cháy chữa cháy, chi trả

dịch vụ pháp lý; chi phí dịch vụ ngân hàng, tín dụng, chi thuê phương tiện

máy móc, nhà cửa…) được sử dụng trong quá trình sản xuất tạo ra giá trị

sản xuất ngành công nghiệp.

a. Chi phí về nguyên nhiên phụ liệu

Chi phí nguyên nhiên phụ liệu chiếm một tỷ trọng rất lớn trong giá thành

của sản phẩm dệt may. Hầu hết trong thời kỳ đầu phát triển ngành công

nghiệp dệt may, các nước trên thế giới đều không đáp ứng được nguồn

nguyên phụ liệu trong nước mà phải nhập khẩu. Rất nhiều quốc gia tỷ lệ

nội địa hoá của sản phẩm dệt may chiếm chưa đến 30% (trong đó có Việt

Nam). Như vậy các quốc gia này đơn thuần chỉ là nơi gia công sản phẩm,

Lê Thị Nhật Phương - Lớp KTPT 44A Trang 12

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!