Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cán bộ quản lý cấp xã trên địa bàn huyện bố trạch tỉnh quảng
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
nhà nước (sau đây gọi chung là cán bộ, công chức) là một trong những nội
dung quan trọng của công tác cải cách hành chính. Vì vậy, trong chương trình
tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010, xây dựng, nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức là một trong bảy chương trình hành
động có ý nghĩa quan trọng góp phần xây dựng một nền hành chính dân chủ,
trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, từng bước hiện đại, xây dựng bộ máy
nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn quan tâm, chăm lo xây dựng cấp xã,
đã tổng kết và rút ra bài học có ý nghĩa cực kỳ quan trọng “cấp xã là gần gũi
dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi công việc
đều xong xuôi”. Thấm nhuần tư tưởng của Người, trong quá trình hoạt động
của mình, Đảng ta luôn quan tâm đến vai trò quan trọng của cán bộ, công tác
cán bộ và đánh giá cao vai trò của cơ sở. Nhất là từ Nghị quyết Trung ương 8
(khoá VII), Nghị quyết Trung ương 3, Nghị quyết Trung ương 6 (khoá VIII).
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) đã ra nghị
quyết "về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã,
phường, thị trấn".
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng
ta xác định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, là khâu đột phá vì thế đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã lại càng có vai trò quan trọng. Bởi lẽ đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã là lực lượng giữ vai trò nòng cốt, điều hành hoạt động của bộ
máy tổ chức xã. Vì vậy, đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị các xã
có tầm quan trọng đặc biệt về nhiều mặt và là một trong những nhân tố có ý
1
nghĩa chiến lược, quyết định sự thành bại của công cuộc xây dựng và phát
triển nông thôn mới.
Đội ngũ cán bộ công chức nhà nước bao gồm nhiều cấp; tuy nhiên, cán
bộ cấp xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cán bộ cấp xã) có tầm quan
trọng bậc nhất. Lý do là mặc dù cấp xã là cấp đơn vị hành chính nhỏ nhất
nhưng lại là nơi gần dân nhất, nơi mà mọi đường lối chủ trương chính sách
của Đảng, Nhà nước trực tiếp đi vào cuộc sống, đồng thời là nơi tiếp thu
những ý kiến của dân để phản ánh lại cho đảng và Nhà nước kịp thời sửa đổi,
bổ sung cho phù hợp. Trên thực tế, cán bộ cấp xã hàng ngày phải giải quyết
một khối lượng công việc rất lớn, đa dạng và phức tạp, liên quan đến tất cả
mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng;
vì vậy, nếu đội ngũ này thiếu phẩm chất và năng lực sẽ gây những hậu quả
tức thời và nghiêm trọng về nhiều mặt cho các địa phương nói riêng và cho cả
nước nói chung. Nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề trên tôi
chọn nghiên cứu đề tài “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cán bộ quản
lý cấp xã trên địa bàn huyện Bố Trạch - Tỉnh Quảng Bình” làm luận văn
thạc sỹ của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã, tìm ra những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực cán bộ quản lý cấp xã.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về nguồn nhân lực và
những vấn đề lý luận liên quan đến công tác cán bộ, công chức cấp xã.
- Đánh giá đúng thực trạng nguồn nhân lực cán bộ quản lý cấp xã của
huyện Bố Trạch hiện nay. Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng
cán bộ, công chức cấp xã.
2
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản
lý cấp xã đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài được xác định là cán bộ, công chức
cấp xã, bao gồm: cán bộ chuyên trách và công chức.
- Phạm vi nghiên cứu:
Căn cứ vào mục tiêu nghiên cứu, đề tài không đi sâu phân tích quá trình
phát triển của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã huyện Bố Trạch mà tập trung
đánh giá thực trạng chất lượng cán bộ, công chức cấp xã huyện Bố Trạch
trong thời kỳ đổi mới. Đề tài không đi vào đánh giá chất lượng cán bộ, công
chức cấp xã qua chỉ tiêu về sức khoẻ.
4. Kết quả nghiên cứu dự kiến
- Tổng hợp lý luận về đánh giá chất lượng nguồn nhân lực cán bộ, công
chức cấp xã nói chung.
- Đề xuất các giải pháp thích hợp, nhằm góp phần nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực cán bộ quản lý cấp xã trên địa bàn. Cùng với những kiến nghị
cho việc triển khai thực hiện các giải pháp đã đề xuất.
5. Kết cấu của luận văn
Với đối tượng, phạm vi và mục tiêu nghiên cứu như vậy, ngoài phần
mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn được
bố cục thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực.
Chương 2: Thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
huyện Bố Trạch trong giai đoạn hiện nay.
Chương 3: Mục tiêu, giải pháp xây dựng và nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức cấp xã giai đoạn 2009 - 2015.
3
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC VÀ
CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
1.1. VAI TRÒ CỦA NGUỒN NHÂN LỰC
1.1.1. Khái niệm và phân loại nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực với tư cách là nơi cung cấp sức lao động cho xã hội, nó
bao gồm toàn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình thường (không bị khiếm
khuyết hoặc dị tật bẩm sinh).
Nguồn nhân lực có thể với tư cách là một nguồn lực cho sự phát triển
kinh tế - xã hội, là khả năng lao động của xã hội được hiểu theo nghĩa hẹp
hơn, bao gồm nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động [2 ].
Nguồn nhân lực còn được hiểu với tư cách là tổng hợp cá nhân những
con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể
chất và tinh thần được huy động vào quá trình lao động. Với cách hiểu này
nguồn nhân lực bao gồm những người bắt đầu bước vào độ tuổi lao động trở
lên có tham gia vào nền sản xuất xã hội [2 ].
Các cách hiểu trên chỉ khác nhau về việc xác định quy mô nguồn nhân
lực, song đều có chung một ý nghĩa là nói lên khả năng lao động của xã hội.
Nguồn nhân lực được xem xét trên giác độ số lượng và chất lượng. Số
lượng được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng nguồn
nhân lực. Các chỉ tiêu về số lượng này có quan hệ mật thiết với chỉ tiêu quy
mô và tốc độ tăng dân số. Quy mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng
cao dẫn đến quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực càng lớn và ngược lại.
Tuy nhiên, mối quan hệ dân số và nguồn nhân lực được biểu hiện sau một
thời gian khoảng 15 năm (vì đến lúc đó con người mới bước vào độ tuổi lao
4
động). Về chất lượng, nguồn nhân lực được xem xét trên các mặt: tình trạng
sức khỏe, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn và năng lực phẩm chất,…
Cũng giống như các nguồn lực khác, số lượng và đặc biệt là chất lượng
nguồn nhân lực đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo ra của cải vật
chất và văn hóa cho xã hội.
Phân loại nguồn nhân lực: tùy theo giác độ nghiên cứu mà người ta
phân loại nguồn nhân lực.
* Nguồn nhân lực có sẵn trong dân cư
Bao gồm toàn bộ những người nằm trong độ tuổi lao động, có khả năng
lao động, không kể đến trạng thái có làm việc hay không làm việc. Theo
thống kê của Liên hợp quốc, khái niệm này gọi là dân cư hoạt động
(Population active), có nghĩa là tất cả những người có khả năng làm việc
trong dân cư tính theo độ tuổi lao động quy định. Độ tuổi lao động là giới hạn
về những điều kiện cơ thể, tâm lý - sinh lý xã hội mà con người tham gia vào
quá trình lao động. Giới hạn độ tuổi lao động được quy định tùy thuộc vào
điều kiện kinh tế - xã hội của từng nước và trong từng thời kỳ. Giới hạn độ
tuổi lao động bao gồm:
Giới hạn dưới: quy định số tuổi thanh niên bước vào độ tuổi lao động, ở
nước ta hiện nay là 15 tuổi.
Giới hạn trên: quy định độ tuổi về hưu, ở nước ta quy định độ tuổi này
là 55 tuổi đối với nữ và 60 tuổi đối với nam.
Nguồn nhân lực có sẵn trong dân cư chiếm một tỷ lệ tương đối lớn
trong dân số, thường từ 50% hoặc hơn nữa, tùy theo đặc điểm dân số và nhân
lực từng nước.
Theo những tài liệu nghiên cứu gần đây cho thấy, số người trong độ
tuổi lao động ở các nước kinh tế chậm phát triển chiếm tỷ lệ thấp (khoảng
55% đến 57%) so với các nước công nghiệp phát triển (khoảng 64% đến
5
66%), chính vì thế gánh nặng về số người không lao động ở các nước nghèo
càng nặng hơn.
Những người trong độ tuổi từ 16- 60 (đối với nam) và 16-55 (đối với
nữ), theo quy định ở Việt Nam, đều thuộc vào nguồn nhân lực trong độ tuổi
lao động. Đây là nguồn nhân lực chính có khả năng tham gia vào hoạt động
kinh tế.
* Nguồn nhân lực tham gia vào hoạt động kinh tế
Hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế. Đây là số người có công ăn
việc làm, đang hoạt động trong các ngành kinh tế và văn hóa của xã hội.
Như vậy, giữa nguồn nhân lực sẵn có trong dân số và nguồn nhân lực
tham gia vào hoạt động kinh tế có sự khác nhau. Sự khác nhau này là do có
một bộ phận những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, nhưng
vì nhiều nguyên nhân khác nhau, chưa tham gia vào hoạt động kinh tế (thất
nghiệp, có việc làm nhưng không muốn làm việc, còn đang học tập, có nguồn
thu nhập khác không cần đi làm,…).
* Nguồn nhân lực dự trữ
Các nguồn nhân lực dự trữ trong nền kinh tế bao gồm những người
trong độ tuổi lao động, nhưng vì các lý do khác nhau, họ chưa có việc làm
ngoài xã hội. Số người này đóng vai trò của một nguồn dự trữ về nhân lực,
gồm có:
- Những người làm việc nội trợ trong gia đình: khi điều kiện kinh tế của
xã hội thuận lợi, nếu bản thân họ muốn tham gia lao động ngoài xã hội, họ có
thể nhanh chóng rời bỏ công việc nội trợ để làm công việc thích hợp ngoài xã
hội. Đây là nguồn nhân lực đáng kể và đại bộ phận là phụ nữ, hàng ngày vẫn
đảm nhiệm những chức năng duy trì, bảo vệ, phát triển gia đình về nhiều mặt,
đó là những hoạt động có ích và cần thiết. Công việc nội trợ gia đình đa dạng,
vất vả với phụ nữ ở các nước chậm phát triển (do chủ yếu là lao động chân
6
tay), dẫn đến năng suất lao động thấp so với những công việc tương tự được
tổ chức ở quy mô lớn hơn, có trang bị kỹ thuật cao hơn.
- Những người tốt nghiệp ở các trường phổ thông và các trường chuyên
nghiệp được coi là nguồn nhân lực dự trữ quan trọng và có chất lượng. Đây là
nguồn nhân lực ở độ tuổi thanh niên, có học vấn, có trình độ chuyên môn (nếu
được đào tạo ở các trường dạy nghề và các trường trung cấp, đại học). Tuy
nhiên, khi nghiên cứu nguồn nhân lực này cần phân chia tỷ mỷ hơn:
+ Nguồn nhân lực đã đến tuổi lao động, tốt nghiệp trung học phổ thông,
không tiếp tục học nữa, muốn tìm công việc làm.
+ Nguồn nhân lực đã đến tuổi lao động, chưa học hết trung học phổ
thông, không tiếp tục học nữa, muốn tìm việc làm.
+ Nguồn nhân lực ở độ tuổi lao động đã tốt nghiệp ở các trường chuyên
nghiệp (trung cấp, cao đẳng, đại học) thuộc các chuyên môn khác nhau tìm
việc làm.
- Những người đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự cũng thuộc nguồn nhân
lực dự trữ, có khả năng tham gia vào hoạt động kinh tế. Số người thuộc nguồn
nhân lực dự trữ này cũng cần phân loại để biết rõ có nghề hay không có nghề,
trình độ văn hóa, sức khỏe,…từ đó tạo công việc làm thích hợp.
- Những người trong độ tuổi lao động đang bị thất nghiệp (có nghề
hoặc không có nghề) muốn tìm việc làm, cũng là nguồn nhân lực dự trữ, sẵn
sàng tham gia vào hoạt động kinh tế.
1.1.2. Vai trò nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội
Nguồn nhân lực là nguồn lực con người, và là một trong những nguồn
lực quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế - xã hội. Vai trò đó bắt nguồn từ
vai trò của yếu tố con người.
1.1.2.1. Con người là động lực của sự phát triển
Bất cứ một sự phát triển nào cũng đều phải có một động lực thúc đẩy.
7
Phát triển kinh tế - xã hội được dựa trên nhiều nguồn lực: nhân lực (nguồn lực
con người), vật lực (nguồn lực vật chất: công cụ lao động, đối tượng lao động,
tài nguyên thiên nhiên,…), tài lực (nguồn lực về tài chính, tiền tệ),…song chỉ
có nguồn lực con người mới tạo ra động lực cho sự phát triển, những nguồn
lực khác muốn phát huy được tác dụng chỉ có thể thông qua nguồn lực con
người. Từ thời kỳ xa xưa con người bằng công cụ lao động thủ công và nguồn
lực do chính bản thân mình tạo ra để sản xuất ra sản phẩm thỏa mãn nhu cầu
của bản thân. Sản xuất ngày càng phát triển, phân công lao động ngày càng
chi tiết, hợp tác ngày càng chặt chẽ tạo cơ hội để chuyển dần hoạt động của
con người cho máy móc thiết bị thực hiện (các động cơ phát lực), làm thay
đổi tính chất của lao động từ lao động thủ công sang lao động cơ khí và lao
động trí tuệ. Nhưng ngay cả trong điều kiện đạt được tiến độ khoa học kỹ
thuật hiện đại như hiện nay thì cũng không thể tách rời nguồn lực con người
bởi lẽ:
- Chính con người đã tạo ra những máy móc thiết bị hiện đại đó. Điều
đó thể hiện mức độ hiểu biết và chế ngự tự nhiên của con người.
- Ngay cả đối với máy móc thiết bị hiện đại, nếu thiếu sự điều khiển,
kiểm tra của con người (tức là tác động của con người) thì chúng chỉ là vật
chất. Chỉ có tác động của con người mới phát động chúng và đưa chúng vào
hoạt động.
Vì vậy, nếu xem xét nguồn lực là tổng thể những năng lực (cơ năng và
trí năng) của con người được huy động vào quá trình sản xuất, thì năng lực đó
là nội lực con người. Trong phạm vi xã hội, đó là một trong những nguồn nội
lực quan trọng cho sự phát triển. Đặc biệt đối với những nước có nền kinh tế
đang phát triển như nước ta dân số đông, nguồn nhân lực dồi dào đã trở thành
một nguồn nội lực quan trọng nhất. Nếu biết khai thác nó sẽ tạo nên một động
lực to lớn cho sự phát triển.
8
1.1.2.2. Con người là mục tiêu của sự phát triển
Phát triển kinh tế - xã hội suy cho cùng là nhằm mục tiêu phục vụ con
người, làm cho cuộc sống con người ngày càng tốt hơn, xã hội ngày càng văn
minh. Nói khác đi, con người là lực lượng tiêu dùng của cải vật chất và tinh
thần của xã hội và như vậy nó thể hiện rõ nét nhất mối quan hệ giữa sản xuất
và tiêu dùng. Mặc dù mức độ phát triển của sản xuất quyết định mức độ tiêu
dùng, song nhu cầu tiêu dùng của con người lại tác động mạnh mẽ tới sản
xuất, định hướng phát triển sản xuất thông qua quan hệ cung cầu hàng hóa
trên thị trường. Nếu trên thị trường nhu cầu tiêu dùng của một loại hàng hóa
nào đó tăng lên, lập tức thu hút lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó
và ngược lại.
Nhu cầu con người vô cùng phong phú, đa dạng và thường xuyên tăng
lên, nó bao gồm nhu cầu vật chất, nhu cầu tinh thần, về số lượng và chủng
loại hàng hóa càng ngày càng phong phú và đa dạng, điều đó tác động tới quá
trình phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.2.3. Yếu tố con người trong phát triển kinh tế - xã hội
Con người không chỉ là mục tiêu, động lực của sự phát triển, thể hiện
mức độ chế ngự thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ cho con người, mà còn
tạo ra những điều kiện để hoàn thiện chính bản thân con người.
Lịch sự phát triển của loài người đã chứng minh rằng trải qua quá trình
lao động hàng triệu năm mới trở thành con người ngày nay và trong quá trình
đó, mỗi giai đoạn phát triển của con người lại làm tăng thêm sức mạnh chế
ngự tự nhiên, tăng thêm động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy động lực, mục tiêu của sự phát triển và tác động của sự phát
triển tới bản thân con người cũng nằm trong chính bản thân con người. Điều
đó lý giải tại sao con người được coi là nhân tố năng động nhất, quyết định
nhất của sự phát triển.
9
1.1.2.4. Vai trò cuả đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
Đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn (cấp xã) là đội ngũ gần
dân nhất, là cầu nối giữa Đảng với dân. Đội ngũ này có vị trí, vai trò quan
trọng vừa phải thực thi các chủ trương chính sách, pháp luật từ cấp trên, vừa
phản ánh nguyện vọng của quần chúng nhân dân đối với cấp trên, đồng thời
cán bộ cấp xã phải giải quyết các công việc hàng ngày có tính chất quản lý, tự
quản mọi mặt ở địa phương. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, cán bộ, công
chức cấp xã phải chịu sự giám sát trực tiếp, hàng ngày của nhân dân.
Vai trò của cán bộ cơ sở là rất quan trọng; an ninh, chính trị, kinh tế -
xã hội của địa phương như thế nào là hoàn toàn phụ thuộc đội ngũ cán bộ, đặc
biệt là cán bộ chủ chốt.
Đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước bao gồm 4 cấp; tuy nhiên cán bộ
cấp xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là cán bộ cấp xã) có tầm quan trọng bậc
nhất. Lý do là mặc dù cấp xã là cấp đơn vị hành chính nhỏ nhất nhưng lại là
nơi gần dân nhất, nơi mà mọi đường lối chủ trương chính sách của Đảng, Nhà
nước trực tiếp đi vào cuộc sống, đồng thời là nơi tiếp thu những ý kiến của
dân để phản ánh lại cho Đảng và Nhà nước kịp thời sửa đổi, bổ sung cho phù
hợp. Cán bộ, công chức cấp xã hàng ngày phải giải quyết một khối lượng
công việc rất lớn, đa dạng và phức tạp, liên quan đến tất cả mọi mặt của đời
sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng; vì vậy, nếu đội
ngũ này thiếu phẩm chất và năng lực sẽ gây những hậu quả tức thời và
nghiêm trọng về nhiều mặt cho địa phương nói riêng và cả nước nói chung.
1.2. CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
1.2.1. Chất lượng nguồn nhân lực
Chất lượng nguồn nhân lực là trạng thái nhất định của nguồn nhân lực
thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của
10
nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực không những là chỉ tiêu phản ánh
trình độ phát triển kinh tế, mà còn là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển về
mặt đời sống xã hội, bởi lẽ chất lượng nguồn nhân lực cao sẽ tạo ra động lực
mạnh mẽ hơn với tư cách không chỉ là một nguồn lực của sự phát triển, mà
còn thể hiện mức độ văn minh của một xã hội nhất định [2 ].
Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện qua một hệ thống các chỉ
tiêu, trong đó có các chỉ tiêu chủ yếu sau:
1.2.1.1. Chỉ tiêu phản ánh tình trạng sức khỏe của người lao động
Sức khỏe là tình trạng thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội chứ
không phải đơn thuần là không có bệnh tật. Sức khỏe là tổng hòa nhiều yếu tố
tạo nên giữa bên trong và bên ngoài, giữa thể chất và tinh thần. Có nhiều chỉ
tiêu biểu hiện trạng thái về sức khỏe. Bộ Y tế nước ta quy định có 3 loại:
A: thể lực tốt, loại không có bệnh tật gì.
B: trung bình.
C: yếu, không có khả năng lao động.
1.2.1.2. Chỉ tiêu phản ánh trình độ văn hóa của người lao động
Trình độ văn hóa của người lao động là sự hiểu biết của người lao động
đối với những kiến thức phổ thông về tự nhiên và xã hội. Trong chừng mực
nhất định, trình độ văn hóa của dân số biểu hiện mặt bằng dân trí của quốc gia
đó. Trình độ văn hóa được biểu hiện thông qua các quan hệ tỷ lệ như:
- Số lượng người biết chữ và chưa biết chữ
- Số người có trình độ tiểu học
- Số người có trình độ phổ thông cơ sở
- Số người có trình độ phổ thông trung học
- Số người có trình độ đại học và trên đại học,…
Trình độ văn hóa của dân số hay của nguồn nhân lực là một chỉ tiêu hết
sức quan trọng phản ánh chất lượng của nguồn nhân lực và có tác động mạnh
11
mẽ tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Trình độ văn hóa cao tạo khả năng
tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chống những tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào thực tiễn.
1.2.1.3. Chỉ tiêu biểu hiện trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động
Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết, khả năng thực hành về chuyên
môn nào đó, nó biểu hiện trình độ được đào tạo ở các trường trung học
chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và sau đại học, có khả năng chỉ đạo quản lý
một công việc thuộc một chuyên môn nhất định. Do đó trình độ chuyên môn
của nguồn nhân lực được đo bằng:
- Tỷ lệ cán bộ trung cấp.
- Tỷ lệ cán bộ cao đẳng, đại học.
- Tỷ lệ cán bộ trên đại học.
Trong mỗi chuyên môn có thể phân chia thành những chuyên môn nhỏ
hơn như đại học: bao gồm kỹ thuật, kinh tế, ngoại ngữ…, thậm chí trong từng
chuyên môn lại chia thành những chuyên môn nhỏ hơn nữa.
Trình độ kỹ thuật của người lao động thường dùng để chỉ trình độ của
người được đào tạo ở các trường kỹ thuật, được trang bị kiến thức nhất định,
những kỹ năng thực hành về công việc nhất định. Trình độ kỹ thuật được biểu
hiện thông qua các chỉ tiêu:
- Số lao động được đào tạo và lao động phổ thông.
- Số người có bằng kỹ thuật và không có bằng.
- Trình độ tay nghề theo bậc thợ.
Trình độ chuyên môn và kỹ thuật thường kết hợp chặt chẽ với nhau,
thông qua chỉ tiêu số lao động được đào tạo và không được đào tạo trong từng
tập thể nguồn nhân lực.
1.2.1.4. Chất lượng nguồn nhân lực còn được thể hiện thông qua chỉ số phát
triển con người (HDI - Human Development Index)
12
Chỉ số này được tính bởi ba chỉ tiêu chủ yếu:
- Tuổi thọ bình quân.
- Thu nhập bình quân đầu người (GDP/người).
- Trình độ học vấn (tỷ lệ biết chữ,số năm đi học trung bình của dân cư).
Như vậy, chỉ số HDI không chỉ đánh giá sự phát triển con người về mặt
kinh tế, mà còn nhấn mạnh đến chất lượng cuộc sống và sự công bằng, tiến bộ
xã hội.
1.2.1.5. Ngoài những chỉ tiêu có thể lượng hóa được như trên người ta còn
xem xét chỉ tiêu năng lực phẩm chất của người lao động
Chỉ tiêu này phản ánh mặt định tính mà khó có thể định lượng được.
Nội dung của chỉ tiêu này được xem xét thông qua các mặt:
- Truyền thống dân tộc bảo vệ Tổ quốc.
- Truyền thồng về văn hóa văn minh dân tộc.
- Phong tục tập quán, lối sống,…
Nhìn chung chỉ tiêu này nhấn mạnh đến ý chí, năng lực tinh thần của
người lao động.
1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cán bộ, công
chức cấp xã huyện Bố Trạch
Vấn đề mấu chốt và mang ý nghĩa quyết định sự thành công hay thất
bại của sự phát triển đất nước nói chung và công tác cải cách hành chính nói
riêng là vấn đề con người, là chất lượng của đội ngũ cán bộ công chức.
Nhìn chung, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức vẫn chưa đáp ứng
kịp yêu cầu của quá trình phát triển nhanh, bền vững và yêu cầu của kinh tế
thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa
(HĐH) đất nước. Chúng tôi thấy việc sắp xếp và nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức là hai vấn đề có mối quan hệ mật thiết với nhau, xác định
13
rà soát và lựa chọn là một trong những nhân tố để góp phần nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước.
Việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một đòi hỏi khách quan
bởi lẽ:
Cùng với sự phát triển của nền sản xuất, nhu cầu của con người ngày
càng phong phú và đa dạng, sản phẩm sản xuất ra ngày càng nhiều hơn và
chất lượng càng cao hơn. Điều đó chỉ có thể có được do loại lao động có trình
độ cao sản xuất ra, nên không thể không chăm lo tới việc nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực.
Nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống: tăng cường sức khỏe, mở rộng
tri thức, nâng cao trình độ tay nghề không chỉ do kết quả của sự phát triển sản
xuất, mà nó xuất phát từ nhu cầu của chính bản thân con người muốn nâng
cao chất lượng cuộc sống. Do vậy, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
không chỉ xuất phát từ yêu cầu sản xuất, mà còn xuất phát từ chính nhu cầu
của con người, điều đó tạo ra điều kiện tốt cho việc nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực hiện nay.
Quá trình CNH, HĐH đất nước là một xu hướng tất yếu của lịch sử, là
quá trình trang bị kỹ thuật công nghệ hiện đại cho nền kinh tế quốc dân.
Trong lĩnh vực nguồn nhân lực đã tạo ra sự chuyển biến về chất: từ lao động
thủ công sang lao động cơ khí và lao động trí tuệ.
Nước ta tiến hành CNH, HĐH từ một mặt bằng kinh tế thấp kém và đội
ngũ lao động chất lượng thấp, vì vậy để tiến hành CNH, HĐH, một đòi hỏi
cấp bách là không thể không nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là
cấp xã) là bộ phận nồng cốt của hệ thống chính trị ở cơ sở, trực tiếp giải quyết
công việc cụ thể của dân, gắn bó với đời sống nhân dân. Năng lực, hiệu quả
công tác của cán bộ, công chức cấp xã, tác động trực tiếp đến sự phát triển
14
kinh tế - văn hóa - xã hội - an ninh - quốc phòng của huyện nhà nói riêng, của
đất nước nói chung. Thực tiễn cho thấy ở đâu có đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã có năng lực, trình độ, đạo đức thì ở đó phát triển tốt.
Trong nhiều năm gần đây Huyện ủy, UBND (Ủy ban nhân dân) huyện
và các địa phương đã tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển,
bố trí, sắp xếp cán bộ, công chức cấp xã theo hướng nâng cao chất lượng, tuy
nhiên phần lớn các địa phương chưa thực hiện đồng bộ, triệt để công tác đào
tạo, bồi dưỡng gắn với công tác quy hoạch cán bộ, nên hiện nay phần lớn cán
bộ chủ chốt cấp xã chưa được đào tạo một cách cơ bản các kiến thức về tổ
chức Nhà nước, pháp luật, quản lý hành chính, chuyên môn nghiệp vụ. Do đó,
nhiều chủ trương, chính sách của Đảng, chương trình, kế hoạch của Nhà nước
chưa được triển khai sâu rộng ra dân, hiệu quả đem lại còn hạn chế.
Trước yêu cầu ngày càng phát triển, tổ chức bộ máy và phương thức
hoạt động của chính quyền cơ sở; đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đang
ngày càng bộc lộ rõ hơn những hạn chế, yếu kém về năng lực, hiệu quả quản
lý hành chính Nhà nước ở cấp cơ sở.
Trên cơ sở các văn bản của Chính phủ, Bộ, ngành Trung ương, Tỉnh
ủy, UBND tỉnh, Huyện ủy, UBND huyện và từ thực tiễn đặt ra sự cần thiết
phải tập trung đổi mới, củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao chất
lượng chính quyền cơ sở. Tuy nhiên, luận văn này, chủ yếu tập trung vào việc
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
1.2.3. Ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực được coi là nội lực cơ bản nhất cần được khai thác và
phát huy để tiến hành công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Thế kỷ XXI
là thế kỷ của trí tuệ và tri thức, các sáng tạo khoa học và công nghệ sẽ tác
động đến toàn nhân loại. Con đường để các doanh nghiệp có thể đi lên và hòa
nhập là nhanh chóng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Khâu đột phá quan
15