Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Một Số Giải Pháp Thúc Đẩy Cơ Cấu Lao Động Trên Địa Bàn Huyện Lương Sơn Tỉnh Hòa Bình Giai Đoạn 2010 2015
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
PHÙNG THỊ LAN
MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CƠ CẤU LAO ĐỘNG
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN LƯƠNG SƠN, TỈNH HOÀ BÌNH
GIAI ĐOẠN 2010 - 2015
Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 60.31.10
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC :
TS.TRẦN VĂN DƯ
Hà Nội, 2011
1
MỞ ĐẦU
Trong bất cứ thời đại nào, xét về nguyên tắc sự tăng trưởng, phát triển
kinh tế bao giờ cũng được quyết định bởi nhân tố con người nói chung và lực
lượng lao động nói riêng, bởi tăng trưởng và phát triển kinh tế tuỳ thuộc trước
hết vào năng lực, trí tuệ và ngành nghề của người lao động. Khi chúng ta đi
vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì nhân tố con người lại càng có
vai trò then chốt, quan trọng hơn các nhân tố khác.
Nước ta có nguồn lao động dồi dào, đó là một tiềm năng to lớn để phát
triển kinh tế - xã hội, đó là một thế mạnh. Tuy nhiên, nguồn lao động vẫn
chưa được sử dụng đầy đủ và có hiệu quả, cơ cấu lao động chưa hợp lý, chất
lượng nguồn lao động cũng như năng suất lao động xã hội còn thấp, tỷ lệ lao
động không có việc làm và thiếu việc làm còn khá cao.
Trong những năm gần đây lực lượng lao động huyện Lương Sơn tăng
nhanh, với mức cung về số lượng lao động lớn nhưng về cơ cấu lao động thì
lại không hợp lý và chất lượng lao động lại thấp, dẫn đến tình trạng vừa thừa
lại vừa thiếu lao động, thừa lao động phổ thông, nhưng thiếu lao động có trình
độ chuyên môn kỹ thuật. Nhìn chung trình độ văn hoá của lao động nước ta
tương đối cao nhưng đại bộ phận là không được qua đào tạo chuyên môn
nghiệp vụ. Cơ cấu lao động bất hợp lý, vấn đề đặt ra trong thời kỳ hiện nay ở
Viêt Nam là phải chuyển dịch cơ cấu lao động giữa cả ba khu vực là: công
nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chuyển dịch cơ cấu lao động tạo điều kiện, là tiền đề cho chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động phù hợp sẽ thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, làm cho nền kinh tế đi lên, ngược lại cơ cấu kinh tế không hợp lý
sẽ kìm hãm sự chuyển dịch cơ cấu lao động. Cơ cấu lao động được phân theo
2
nhiều loại: cơ cấu thành phần, cơ cấu lao động theo ngành nghề, cơ cấu theo
trình độ chuyên môn, cơ cấu ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ....
Với mục tiêu quan trọng của việc chuyển dịch cơ cấu lao động nên em
đã chọn đề tài nghiên cứu làm luận văn thạc sỹ: “Một số giải pháp thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu lao động trên địa bàn huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình
giai đoạn 2010 - 2015” để góp phần đưa ra một cơ cấu lao động một cách hợp
lý hơn góp phần phát triển đất nước.
3
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG
1.1. Một số khái niệm về chuyển dịch cơ cấu lao động
1.1.1. Cơ cấu lao động
Cơ cấu lao động là phạm trù kinh tế xã hội, phản ánh hình thức cấu tạo
bên trong của tổng thể lao động, sự tương quan giữa các bộ phận và mối quan
hệ giữa các bộ phận đó. Đặc trưng của cơ cấu lao động là mối quan hệ tỷ lệ về
mặt số lượng và chất lượng lao động theo những tiêu chí nhất định.
Là một phạm trù kinh tế – xã hội, cơ cấu lao động có những thuộc tính
cơ bản, đó là tính khách quan, tính lịch sử và tính xã hội:
i) Tính khách quan: Cơ cấu lao động bắt nguồn từ dân số và cơ cấu kinh
tế, quá trình vận động của dân số và cơ cấu kinh tế có tính khách quan do đó
nó quy định tính khách quan của cơ cấu lao động.
ii) Tính lịch sử: Quá trình phát triển của loài người là quá trình phát triển
của các phương thức sản xuất, mỗi phương thức sản xuất có một cơ cấu kinh
tế đặc trưng, nên cơ cấu kinh tế có tính lịch sử. Được bắt nguồn từ cơ cấu
kinh tế nên cơ cấu lao động cũng có tính lịch sử.
iii) Cơ cấu lao động mang tính xã hội sâu sắc: Cơ cấu lao động phản ánh
sự phân công lao động xã hội. Quá trình phân công lao động xã hội thể hiện
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thể hiện quá trình phát triển của
con người. Mỗi hình thức phân công lao động sẽ tạo nên một cơ cấu lao động
mới. Xét trên phương diện sản xuất, cơ cấu lao động không những phản ánh
các giai tầng của xã hội trong nền sản xuất mà còn phản ánh các hoạt động
kinh tế của các giai tầng xã hội trong mỗi giai đoạn phát triển.
Nghiên cứu cơ cấu lao động nghĩa là nghiên cứu sự phân chia lao động
thành các nhóm, các bộ phận khác nhau dựa theo những tiêu chí cụ thể tuỳ
thuộc vào mục đích nghiên cứu.
4
Thông thường, cơ cấu lao động được chia làm hai loại : cơ cấu cung về
lao động (theo khả năng) và cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế
(theo cầu). Cơ cấu cung lao động là một trong các yếu tố phản ánh số lượng
và chất lượng của nguồn nhân lực, còn cơ cấu lao động đang làm việc phản
ánh sự phân bố của lao động theo các ngành, khu vực, và theo các tiêu chí
khác. Trong nền kinh tế thị trường, cơ cấu lao động theo cung cầu được hình
thành từ quan hệ cung cầu lao động trên thị trường lao động Tùy theo giác độ
nghiên cứu mà người ta chia ra các loại cơ cấu lao động khác nhau:
Xét theo không gian, hình thành cơ cấu lao động theo vùng, lãnh thổ;
cơ cấu lao động theo khu vực thành thị – nông thôn. Loại cơ cấu này dùng để
đánh giá tình trạng phân bố lao động xã hội theo không gian.
Xét theo tính chất các yếu tố tạo nguồn, hình thành cơ cấu lao động
theo độ tuổi; cơ cấu lao động theo trình độ… Loại cơ cấu này dùng để đánh
giá thực trạng về tình hợp lý trong sử dụng lao động.
Xét theo các ngành kinh tế, hình thành cơ cấu lao động theo ngành, đây
là cơ cấu lao động đang làm việc trên các vùng, lãnh thổ được chia theo
ngành hay nhóm ngành kinh tế. Loại cơ cấu này dùng để đánh giá thực trạng
phân bố, chuyển dịch lao động giữa các ngành kinh tế quốc dân.
Xét theo từng ngành kinh tế, hình thành cơ cấu lao động theo nội bộ
ngành. Loại cơ cấu này dùng để đánh giá tình trạng phân bố lao động làm việc
trong nội bộ các ngành của nền kinh tế.
Ngoài ra, tùy thuộc mục đích nghiên cứu có thể chia cơ cấu lao động làm
nhiều loại khác nhau như cơ cấu lao động theo giới tính, theo nghề nghiệp …
1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu lao động
Chuyển dịch cơ cấu lao động là sự thay đổi tăng, giảm của từng bộ
phận trong tổng thể lao động theo một khoảng thời gian nào đó. Còn chuyển
dịch cơ cấu lao động theo ngành là sự thay đổi trong quan hệ tỷ lệ, cũng như
xu hướng vận động về lao động của các ngành diễn ra trong một không gian,
thời gian và theo xu hướng nhất định .
5
Thực chất, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành là quá
trình phân bố lại lực lượng lao động có việc làm trong nền kinh tế theo những
xu hướng tiến bộ nhằm mục đích sử dụng lao động có hiệu quả hơn. Quá trình
phân bố lại lực lượng lao động vừa diễn ra trên quy mô toàn bộ nền kinh tế
vừa diễn ra theo phạm vi của từng nhóm ngành. Lao động của một ngành thay
đổi chỉ khi có sự thay đổi về số lượng lao động trong nội bộ ngành đó. Chẳng
hạn, nếu lao động của nhóm ngành nông nghiệp giảm đi, thì rõ ràng việc giảm
này là do sự thay đổi lao động của 3 ngành nhỏ nông nghiệp, lâm nghiệp và
ngư nghiệp. Có thể trong mỗi ngành nhỏ số lao động có thể tăng lên hay giảm
xuống nhưng xét trên cả 3 ngành thì số lao động giảm đi. Như vậy, ở đây đã
có sự thay đổi về lao động của từng ngành nhỏ so với tổng số lao động của
ngành nông nghiệp, đây chính là sự thay đổi về cơ cấu lao động trong nội bộ
ngành nông nghiệp.
Có thể khẳng định rằng có mối liên hệ mật thiết giữa việc chuyển dịch
cơ cấu lao động nội bộ ngành và sự thay đổi lao động của ngành, suy rộng ra
đó là mối liên hệ giữa việc chuyển dịch cơ cấu lao động nội bộ ngành và cơ
cấu lao động theo ngành. Như vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động
theo ngành gắn liền với sự thay đổi cấu trúc lao động trong nội bộ mỗi ngành.
Hơn nữa, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành còn làm thay đổi
chất lượng lao động trong từng ngành. Mỗi ngành đều có những đặc tính
riêng, do đó đặc điểm sử dụng lao động của các ngành khác nhau đặc biệt là
trình độ của lao động. Do vậy, quá trình chuyển dịch dẫn đến sự di chuyển về
lao động và sự di chuyển này kéo theo sự thay đổi về chất lượng lao động của
từng ngành.
1.1.3. Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế
Cơ cấu của nền kinh tế quốc dân là hình thức cấu tạo bên trong của nền
kinh tế, là tổng thể các quan hệ chủ yếu về số lượng và chất lượng tương đối
ổn định của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong một hệ thống tái sản
xuất xã hội trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Cơ cấu của nền
kinh tế được nghiên cứu theo nhiều phương diện khác nhau, trong đó phổ biến
6
hơn cả là theo phương diện ngành kinh tế.
Cơ cấu ngành kinh tế được hiểu là sự tương quan giữa các ngành trong
tổng thể nền kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về
số và chất lượng giữa các ngành. Các mối quan hệ này được hình thành trong
những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, luôn vận động và hướng vào
những mục tiêu cụ thể.
Trong tổng thể nền kinh tế bao gồm nhiều ngành kinh tế khác nhau, số
lượng các ngành này không cố định. Sự phát triển của phân công lao động xã
hội sẽ làm thay đổi về mặt chất và lượng của các ngành kinh tế. Từ đầu thế kỷ
XIX, nhà Kinh tế học Collin Class căn cứ vào tính chất chuyên môn hóa của
sản xuất đã chia thành 3 nhóm ngành: Khai thác tài nguyên thiên nhiên (nông
nghiệp và khai thác khoáng sản); Công nghiệp chế biến; Sản xuất sản phẩm
vô hình. Sau này, Liên hợp quốc căn cứ vào tính chất hoạt động sản xuất đã
chuyển hoạt động khai thác khoáng sản sang ngành công nghiệp và gọi sản
xuất sản phẩm vô hình là dịch vụ. Thực ra, nguyên tắc phân ngành xuất phát
từ tính chất phân công lao động xã hội, Biểu hiện cụ thể qua sự khác nhau về
quy trình công nghệ của các ngành trong quá trình tạo ra sản phẩm vật chất và
dịch vụ. Với nguyên tắc đó, các ngành kinh tế được phân thành 3 khu vực hay
còn gọi là 3 nhóm ngành: Khu vực I bao gồm các ngành nông - lâm - ngư
nghiệp; Khu vực II gồm các ngành công nghiệp và xây dựng; Khu vực III bao
gồm các ngành dịch vụ .
Với sự phân ngành này, cơ cấu ngành được nghiên cứu chủ yếu dưới các
góc độ sau: góc độ thu nhập (nghiên cứu cơ cấu ngành theo GDP), góc độ đầu
tư (nghiên cứu cơ cấu ngành theo lượng vốn đầu tư), góc độ lao động (nghiên
cứu cơ cấu ngành theo lao động).
Nền kinh tế được chia thành 3 nhóm ngành lớn, mỗi nhóm ngành này là
sự kết hợp của các ngành nhỏ hơn có những đặc điểm tương đối giống nhau
và các ngành này đã tạo nên cơ cấu nội bộ ngành.
Nhóm ngành nông nghiệp bao gồm các ngành: ngành sản xuất nông
nghiệp, ngành lâm nghiệp và ngành thuỷ sản
7
Nhóm ngành công nghiệp xây dựng bao gồm các ngành: ngành công
nghiệp khai thác, ngành công nghiệp chế biến, các ngành sản xuất – phân phối
điện nước và khí đốt, ngành xây dựng
Nhóm ngành dịch vụ bao gồm các ngành: các ngành dịch vụ kinh doanh
có tính chất thị trường, dịch vụ sự nghiệp, dịch vụ hành chính công
Tương đối giống cơ cấu ngành về mặt bản chất, cơ cấu nội bộ ngành
chính là hình thức cấu trúc bên trong của ngành, là các mối quan hệ của các
ngành nhỏ về cả số lượng và chất lượng.
Nghiên cứu cơ cấu ngành tức là nghiên cứu tổng thể cơ cấu ngành trong
mối quan hệ mật thiết với cơ cấu nội bộ từng nhóm ngành. Việc nghiên cứu
cơ cấu ngành có ý nghĩa rất quan trọng. Xét trên cả hai khía cạnh tăng trưởng
kinh tế và phát triển kinh tế thì cơ cấu ngành được xem là một trong những
yếu tố quan trọng nhất vì nó phản ánh sự phát triển của khoa học công nghệ,
lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội và hợp tác hóa sản xuất. Trạng
thái của cơ cấu ngành phản ánh trình độ phát triển nền kinh tế của mỗi quốc
gia, đó là tiêu chí để xác định xem nền kinh tế của quốc gia đó là nền kinh tế
nông nghiệp, công nghiệp hay hậu công nghiệp.
1.2. Tính tất yếu khách quan của chuyển dịch cơ cấu lao động
1.2.1. Ý nghĩa của việc chuyển dịch cơ cấu lao động
Chuyển dịch
Theo Từ điển tiếng Việt thì chuyển dịch là thay đổi hoặc làm thay đổi
vị trí trong quãng ngắn. Chuyển dịch được hiểu ở hai khía cạnh: Thứ nhất, đó
là sự thay đổi từ vị trí này sang vị trí khác, thứ hai, chuyển dịch là quá trình
làm biến đổi các yếu tố trong cấu trúc và mối quan hệ giữa các yếu tố hợp
thành một tổng thể theo chủ đích và phương hướng xác định. Như vậy có thể
hiểu chuyển dịch là chuyển từng quãng ngắn hoặc làm thay đổi cơ cấu thành
phần.
8
Cơ cấu lao động
Cơ cấu lao động là quan hệ tỷ lệ lao động được phân chia theo một tiêu
thức kinh tế nào đó. Tuy nhiên, ở đây cơ cấu lao động được xem xét dưới hai
góc độ khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nhất là liên quan
đến chuyển dịch cơ cấu lao động:
Thứ nhất, cơ cấu lao động xét về mặt nguồn, tức là mặt “cung lao
động”. Cơ cấu cung lao động được xác định bằng chỉ tiêu phản ánh cơ cấu (tỷ
lệ) số lượng và chất lượng nguồn lao động: Dân số trong độ tuổi lao động
không hoạt động kinh tế thường xuyên (không có nhu cầu làm việc) và hoạt
động kinh tế thường xuyên (lực lượng lao động); Cơ cấu chất lượng lực lượng
lao động (theo trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật).
Thứ hai, cơ cấu lao động xét về mặt phân công lao động xã hội, tức là
mặt cầu lao động. ở đây, cơ cấu cầu lao động phản ánh tình trạng việc làm
hay sử dụng lao động. Cơ cấu này được biểu thị bằng tỷ lệ lao động phân chia
theo ngành, theo vùng, theo khu vực, theo thành phần kinh tế, theo trạng thái
việc làm.
Cơ cấu lao động xét về mặt cầu sẽ gắn liền và phụ thuộc vào cơ cấu
kinh tế. Tất nhiên, giữa cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động không có cùng tỷ lệ
và cũng không chuyển dịch với một tốc độ như nhau, thông thường tốc độ
chuyển dịch cơ cấu cầu lao động chậm hơn tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Điều đó có nghĩa là, tuỳ thuộc vào phạm vi và mục đích nghiên cứu, có thể
phân tích cơ cấu cầu lao động tương ứng với các tiêu thức phân chia cơ cấu
kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu lao động
Vì cơ cấu lao động xét về mặt cầu sẽ gắn liền và phụ thuộc vào cơ cấu
kinh tế vì vậy trước hết chúng tôi đưa ra khái niệm về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm biến đổi cơ cấu kinh tế sao cho phù
hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và xu hướng phát triển chung của
kinh tế thế giới cùng với sự tiến bộ của khoa học công nghệ. Chuyển dịch cơ
cấu kinh tế là quá trình làm biến đổi các yếu tố của cấu trúc và mối quan hệ