Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Một số giải pháp nâng cao kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cho đội ngũ cán bộ khoa học ở Trung tâm Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh
PREMIUM
Số trang
240
Kích thước
2.4 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1200

Một số giải pháp nâng cao kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cho đội ngũ cán bộ khoa học ở Trung tâm Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HỒ CHÍ MINH

BÁO CÁO

TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

ĐỀ TÀI GIÁM ĐỐC GIAO NHIỆM VỤ NĂM 2008

MÃ SỐ: CS 08-05

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO KỸ NĂNG SỬ DỤNG

CÔNG NGHỆ THÔNG TIN CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ KHOA HỌC

Ở TRUNG TÂM HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH

QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

Cơ quan chủ trì đề tài : Văn phòng Học viện

Chủ nhiệm đề tài : KS Trần Danh Tuấn

Thư ký đề tài : KS Lưu Quang Đà

7259

26/3/2009

HÀ NỘI 2008

CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI

KS TRẦN DANH TUẤN

THƯ KÝ ĐỀ TÀI

KS LƯU QUANG ĐÀ

CÁC CỘNG TÁC VIÊN:

1. TS Ngô Kim Ngân

2. PGS, TS Hồ Trọng Hoài

3. TS Bùi Đức Tiến

4. TS Lê Văn Lợi

5. KS Lưu Quang Đà

6. KS Đào Văn Tùng

7. KS Phạm Quyết Tiến

8. KS Ngô Quang Huy

Chủ nhiệm đề tài xin chân thành cảm ơn các đồng chí lãnh đạo

các đơn vị trong Học viện, các đồng chí lãnh đạo Văn phòng Học viện,

các nhà khoa học và các đồng chí trong đơn vị đã cộng tác giúp đỡ để

hoàn thành đề tài này.

--- Trang 1 ---

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU..............................................................................................................................4

Chương 1. Cơ sở lý luận về kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cho

đội ngũ cán bộ khoa học .....................................................................................8

1.1. Khái niệm cán bộ khoa học ................................................................................8

1.1.1. Khái niệm...................................................................................................8

1.1.2. Hoạt động nghiên cứu khoa học..............................................................10

1.1.3. Kết luận mục 1.1 ......................................................................................12

1.2. Khái niệm công nghệ thông tin ........................................................................12

1.2.1. Khái niệm.................................................................................................12

1.2.2. Các giá trị xã hội gián tiếp của CNTT được ứng dụng trong

đời sống..................................................................................................16

1.2.3. Kết luận mục 1.2 ......................................................................................19

1.3. Khái niệm kỹ năng, kỹ năng sử dụng CNTT..................................................19

1.3.1. Khái niệm kỹ năng ...................................................................................19

1.3.2. Kỹ năng sử dụng CNTT ...........................................................................21

1.3.3. Đặc điểm và vai trò của kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin đối

với công tác của cán bộ khoa học...........................................................23

Chương 2. Thực trạng kỹ năng sử dụng CNTT trong đội ngũ cán bộ

khoa học của Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh..........25

2.1. Các tiêu chí đánh giá.........................................................................................25

2.2. Thực trạng trong đội ngũ cán bộ giảng dạy nghiên cứu ...............................26

2.2.1. Về nhận thức, thái độ...............................................................................26

2.2.2. Về kiến thức đã được đào tạo, nhu cầu nâng cao kiến thức....................27

2.2.3. Mức độ hoàn thiện các nhóm kỹ năng .....................................................29

2.2.4. Việc ứng dụng các kỹ năng vào nghiên cứu ............................................32

2.3. Đánh giá chung..................................................................................................36

--- Trang 2 ---

Chương 3. Các giải pháp nâng cao kỹ năng sử dụng CNTT cho đội ngũ

cán bộ khoa học ở trung tâm Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia

Hồ Chí Minh hiện nay .........................................................................................43

3.1. Một số yêu cầu về kỹ năng sử dụng CNTT đối với cán bộ khoa học của

Học viện hiện nay.............................................................................................43

3.2. Các giải pháp .....................................................................................................44

3.2.1. Các giải pháp mang tính định hướng ......................................................44

3.2.2. Các giải pháp cụ thể ................................................................................48

PHỤ LỤC ......................................................................................................................... 50

TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................. 136

--- Trang 3 ---

MỤC LỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ

Trang

Bảng thống kê chi tiết số lượng thiết bị CNTT các loại theo các đơn vị

tại Trung tâm Học viện đang sử dụng..........................................................................38

Biểu đồ tần suất sử dụng máy tính................................................................................27

Biểu đồ nhận thức về hiệu quả của CNTT đối với công việc......................................30

Sơ đồ mạng trục cáp quang tại trung tâm Học viện ...................................................41

Sơ đồ mạng tại trung tâm Học viện ..............................................................................41

--- Trang 4 ---

MỞ ĐẦU

Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định phát triển khoa học và công nghệ là nền

tảng, là động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chỉ thị số 58-

CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng xác

định mục tiêu từ nay đến năm 2010: "CNTT được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh

vực, trở thành một trong những yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế - xã

hội...". Mục tiêu này được thể chế hoá trong Quyết định 331/QĐ-TTg ngày

06/4/2004 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển nguồn nhân

lực CNTT đến năm 2010 và Quyết định 246/2005/QĐ-TTg ngày 06/10/2005 phê

duyệt Chiến lược phát triển CNTT và truyền thông Việt Nam đến năm 2010 và

định hướng đến năm 2020. Ứng dụng Công nghệ Thông tin (CNTT) đã thực sự là

đòi hỏi cấp bách và cũng trở thành một bộ phận quan trọng của quá trình phát triển

kinh tế-xã hội nước ta. Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh là

một trung tâm quốc gia về đào tạo và nghiên cứu khoa học không thể nằm ngoài

quá trình này. Yêu cầu của tình hình mới đối với Học viện đã được Bộ Chính trị

nêu rõ trong Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 30/7/2005 là phải "từng bước hiện đại

hoá cơ sở vật chất-kỹ thuật để tương xứng với một trung tâm đào tạo và nghiên cứu

lớn của quốc gia và khu vực". Để thực hiện được yêu cầu đó, Bộ Chính trị chỉ đạo:

"trong những năm tới, ưu tiên đầu tư theo quy hoạch, chú trọng đầu tư về CNTT".

Trước áp lực đổi mới và sự phát triển mạnh mẽ của CNTT, Học viện đã thực

hiện một số bước đi tham gia vào quá trình phát triển của đất nước. Tuy nhiên từ

năm 1995 đến nay, Học viện vẫn đang tiến những bước chậm chạp trong nghiên

cứu ứng dụng CNTT. Năm 1995 Giám đốc Học viện thành lập Ban Chỉ đạo CNTT

thì năm đó Đề tài "Định hướng ứng dụng và phát triển CNTT của Học viện giai

đoạn 1996-2000" được nghiệm thu. Đến năm 1999, Đề tài "Ứng dụng CNTT trong

hoạt động quản lý tại khu vực trung tâm Học viện" được nghiệm thu. Năm 2003

mới có một đề tài nghiên cứu cấp Bộ về ứng dụng CNTT trong hệ thống Học viện

--- Trang 5 ---

được hoàn thành. Các đề tài nêu trên đều nghiên cứu CNTT và việc tổ chức ứng

dụng nó trên bình diện chung. Mục tiêu chủ yếu của các đề tài này là nghiên cứu

các cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc tổ chức xây dựng hạ tầng CNTT tại Học

viện, đặc biệt là khu vực trung tâm Học viện. Chính vì vậy từ kết quả của các đề tài

trên, Học viện đã tiến hành xây dựng và có một hạ tầng kỹ thuật CNTT được coi là

tốt nhất trong khu vực trường học hiện nay (theo đánh giá của đồng chí Trưởng

phòng Quản lý CNTT (Văn phòng Học viện) tại Hội nghị chuyển giao phần mềm

văn phòng bản quyền của Microsoft ngày 30/10/2008 vừa qua). Mặc dù vậy công

nghệ WEB, lĩnh vực công nghệ năng động nhất hiện nay lại chưa được chú ý phát

triển. Do đó, thực hiện Nghị quyết 52-NQ/TW của Bộ Chính trị, năm 2006 Học

viện có Đề tài "Ứng dụng CNTT trong công tác lãnh đạo, quản lý ở Học viện".

Nghiên cứu này không đề cập đến những vấn đề cũ mà chủ yếu tìm hiểu nguyên lý,

đánh giá thực trạng và phát kiến những giải pháp ứng dụng công nghệ WEB vào

công tác lãnh đạo quản lý của Học viện, đáp ứng đòi hỏi cải cách hành chính.

Như vậy, cho đến nay chưa có bất kỳ một đề tài khoa học nào nghiên cứu cụ

thể việc ứng dụng CNTT cho công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học của Học

viện. Hiện nay nhiều câu hỏi chưa được trả lời như: ứng dụng CNTT vào đào tạo

và nghiên cứu khoa học như thế nào; đánh giá hiệu quả ứng dụng CNTT vào đào

tạo và nghiên cứu ra sao; những yếu tố nào chi phối hiệu quả ứng dụng CNTT vào

đào tạo và nghiên cứu...Hệ thống hạ tầng kỹ thuật phục vụ đào tạo và nghiên cứu

cũng đã được triển khai nhưng chưa đồng bộ, thậm chí triển khai rồi không ứng

dụng được vì thiếu kế hoạch, thiếu người dùng...Có lẽ vì vậy mà hoạt động đào tạo

và nghiên cứu của Học viện chưa có chuyển biến tích cực, chưa thật sự hoà nhập

vào dòng chảy của quá trình phát triển đất nước.

Trong rất nhiều yếu tố chi phối hiệu quả ứng dụng CNTT vào đào tạo và

nghiên cứu khoa học nói chung, thì kỹ năng sử dụng CNTT của đội ngũ cán bộ

giảng dạy, nghiên cứu có vị trí hàng đầu, giữ vai trò quyết định. Nếu như hạ tầng

kỹ thuật CNTT có vị trí tiên phong, khai mở, và giữ vai trò làm nền tảng, cơ sở

--- Trang 6 ---

cho sự phát triển ứng dụng CNTT vào bất cứ lĩnh vực nào, thì mục tiêu cuối cùng

chính là người thực hiện việc ứng dụng đó. Mối quan hệ này tương tự mối quan

hệ giữa máy móc và người thợ máy. Nếu có máy móc mà không có thợ thì cái

máy chỉ là một cái xác vô hồn bất động. Để làm sáng tỏ vấn đề này, đề tài "Một

số giải pháp nâng cao kỹ năng sử dụng Công nghệ Thông tin cho đội ngũ cán bộ

khoa học ở trung tâm Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh hiện

nay" thực sự mang tính cấp thiết.

Mục tiêu nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về cán bộ khoa học; Công

nghệ Thông tin; kỹ năng sử dụng CNTT vào công tác giảng dạy, nghiên cứu;

mối quan hệ giữa kỹ năng sử dụng CNTT và hiệu quả hoạt động giảng dạy,

nghiên cứu khoa học. Trên cơ sở đó xây dựng các tiêu chí đánh giá thực tiễn kỹ

năng sử dụng CNTT của cán bộ khoa học Học viện. Qua việc khảo sát và đánh

giá thực trạng kỹ năng sử dụng CNTT của đội ngũ cán bộ khoa học Học viện,

Đề tài hướng tới mục tiêu đề ra các giải pháp khoa học và thiết thực nhằm phát

huy những điều kiện đã và đang có, đồng thời khắc phục được những hạn chế,

khuyết điểm từ cả hai bình diện chủ quan và khách quan, từ đó nâng cao kỹ năng

sử dụng CNTT cho cán bộ khoa học của Học viện. Những kết quả nghiên cứu từ

đề tài này sẽ là luận cứ khoa học cho việc giải quyết vấn đề then chốt nhất, cơ

bản nhất của quá trình ứng dụng CNTT vào đào tạo và nghiên cứu của Học viện,

tạo cơ sở và động lực cho ứng dụng CNTT mạnh mẽ, toàn diện tại khu vực trung

tâm và trong toàn bộ hệ thống Học viện.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu

- Địa điểm nghiên cứu: trung tâm Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia

Hồ Chí Minh (135 Nguyễn Phong Sắc, Nghĩa Tân, Cầu Giấy, Hà Nội).

- Thời gian nghiên cứu: nghiên cứu đã tiến hành trong năm học 2007-2008.

--- Trang 7 ---

- Đối tượng nghiên cứu là cán bộ, công chức Học viện (bao gồm tổng số thực

tế nghiên cứu là 278 người. Trong đó có 133 nam, 144 nữ. Qua quá trình nghiên

cứu đã phân loại thành 4 (bốn) nhóm là cán bộ giảng dạy, cán bộ nghiên cứu, cán

bộ vừa giảng dạy vừa nghiên cứu, và cán bộ khác.

Theo thống kê của Vụ Tổ chức-Cán bộ Học viện thì con số cán bộ khoa học

năm 2008 của Học viện đang công tác tại trung tâm Học viện là 612 người. Tuy

nhiên quan niệm về "cán bộ khoa học" chưa thống nhất, thể hiện ngay trong cách

xác định của Vụ Tổ chức-Cán bộ, do đó Vụ này đưa ra một con số khác là 186 cán

bộ khoa học. Do số lượng cán bộ khoa học của Học viện không quá lớn nên nhóm

nghiên cứu đặt ra yêu cầu khảo sát gần như toàn bộ các cá nhân thuộc nhóm đối

tượng nghiên cứu. Qua đó có thể đánh giá chính xác thực trạng kỹ năng sử dụng

CNTT. Vì vậy số đối tượng được khảo sát là cán bộ khoa học có 216 người trong

tổng số 278 người.

- Phương pháp nghiên cứu: quá trình nghiên cứu sử dụng các phương pháp

nghiên cứu khoa học gồm phương pháp biện chứng duy vật, phương pháp lịch sử

cụ thể, phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê xã hội học và một số phương

pháp khác.

--- Trang 8 ---

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ KHOA HỌC

1.1. Khái niệm cán bộ khoa học

1.1.1. Khái niệm

Cán bộ khoa học là khái niệm được sử dụng rất nhiều. Nhưng cho đến nay

không có một định nghĩa chính thức nào về khái niệm cán bộ khoa học. Có nhiều

cách sử dụng khác nhau đối với khái niệm "cán bộ khoa học". Tại Quyết định 224-

TTg ngày 24/5/1976 của Thủ tướng Chính phủ về việc đào tạo trên đại học ở trong

nước có nêu: "đội ngũ cán bộ khoa học gồm hàng nghìn người tốt nghiệp tiến sĩ,

phó tiến sĩ". Năm 2000, Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh đưa ra số liệu thống

kê về "cán bộ khoa học kỹ thuật" bao gồm các nhóm người có trình độ cao đẳng,

đại học, thạc sỹ, tiến sỹ. Ngày 19/4/2000 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định

322/QĐ-TTg phê duyệt đề án "Đào tạo cán bộ khoa học, kỹ thuật tại các cơ sở

nước ngoài bằng ngân sách nhà nước", trong đó xác định "cán bộ khoa học, kỹ

thuật" là người được đào tạo trình độ tiến sĩ, thạc sĩ, đại học. Quan niệm này thống

nhất trong các quy định của Chính phủ nên năm 2006, tại Quyết định 356/QĐ-TTg

điều chỉnh Đề án 322 nêu trên, do mở rộng đối tượng đào tạo ra ngoài phạm vi cán

bộ thuộc đơn vị giảng dạy, nghiên cứu nên Đề án được đổi tên là ""Đào tạo cán bộ

tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước". Như vậy theo các văn bản của

Chính phủ thì cán bộ khoa học là những người có hai tiêu chí cơ bản: thứ nhất là

được đào tạo đạt trình độ từ cử nhân trở lên (có thể là cử nhân cao đẳng), thứ hai là

đang công tác, làm việc tại các cơ quan, đơn vị nghiên cứu khoa học và giảng dạy.

Tại Học viện, có quan niệm phổ biến hiện nay cho rằng "đội ngũ cán bộ

khoa học của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh là những

người thuộc biên chế cơ hữu của Học viện có trình độ từ đại học trở lên, được đào

tạo cơ bản, có hệ thống về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các

chuyên ngành về khoa học xã hội - nhân văn, khoa học hành chính và các khoa

--- Trang 9 ---

học khác đang làm nhiệm vụ nghiên cứu, giảng dạy, đồng thời có thể làm cả chức

năng lãnh đạo, quản lý trong một thời gian nhất định" (TS Lê Văn Lợi, Vụ Tổ

chức-Cán bộ). Có thể thấy quan niệm này không hoàn toàn trùng khớp với quan

niệm của Chính phủ. Nếu như Chính phủ đòi hỏi hai tiêu chí chặt chẽ thì Học viện

chỉ đòi hỏi một tiêu chí cơ bản là có trình độ từ đại học trở lên. Điều này xuất phát

từ thực tế là cán bộ có trình độ khoa học cao đang là nguồn bổ sung quan trọng

cho công tác quản lý. Có lẽ cũng từ thực tế này mà Chính phủ phải điều chỉnh Đề

án cử người đi học nước ngoài, đối tượng không còn chỉ là cán bộ khoa học mà

mở rộng ra cả công chức quản lý. Một khác biệt nữa là trong khi Chính phủ xác

định cán bộ khoa học có thể chỉ đạt trình độ cử nhân cao đẳng, thì tại Học viện

đòi hỏi này cao hơn, phải từ trình độ cử nhân đại học trở lên. Đây là một đặc thù

của Học viện bắt nguồn từ khâu tuyển dụng đầu vào (chỉ tuyển dụng ứng viên có

trình độ cử nhân đại học trở lên).

Cũng là công chức của Học viện, nhưng GS,TS Mạch Quang Thắng, Vụ

trưởng Vụ Quản lý khoa học lại có quan niệm khác so với các quan niệm trên.

Trong bài viết "Vấn đề nhân tài và chính sách đối với nhân tài - một số vấn đề đặt

ra ở Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (Bài viết tham gia Hội

thảo khoa học do Văn phòng Học viện tổ chức quý II-2008, chủ đề: “Luật công

chức, công vụ và vấn đề văn hoá, văn minh công sở tại Học viện Chính trị-Hành

chính quốc gia Hồ Chí Minh”), ông viết: "thật khó mà duy danh, định nghĩa thế nào

là nhân tài ở Học viện. Ai là nhân tài trong số hơn 2000 cán bộ, công chức ở Học

viện? Lấy tiêu chí chức vụ công tác ư? Không nên. Lấy chức danh khoa học hay

học vị? Cũng không được. Do vậy, nhiều khi ở bài viết này, tôi chỉ đề cập chung

cho cán bộ nghiên cứu, giảng dạy (gọi chung là cán bộ khoa học)".

Như vậy, GS,TS Mạch Quang Thắng đã quan niệm cán bộ khoa học là cán

bộ nghiên cứu, giảng dạy - có thể hiểu là cán bộ làm công tác nghiên cứu và giảng

dạy. Quan niệm này có nhiều điểm hợp lý. Trong 3 (ba) quy chế hiện hành của Học

viện về giảng viên, chuyên viên và nghiên cứu viên thì nhiệm vụ nghiên cứu chỉ đặt

--- Trang 10 ---

ra với giảng viên và nghiên cứu viên. Về thực chất thì cán bộ khoa học nên hiểu là

cán bộ làm công tác nghiên cứu và truyền dạy kiến thức khoa học. Trong hoàn cảnh

chiến tranh hay thời kỳ đất nước còn khó khăn, Đảng và Nhà nước ta đều xác định

các nhà khoa học không căn cứ vào học vị mà chủ yếu vào thành tựu khoa học và

thực tế công tác của mỗi cá nhân. Cần hiểu thực chất khái niệm "cán bộ khoa học"

là người nghiên cứu khoa học do nhà nước trả lương. Hoạt động nghiên cứu khoa

học vẫn phải là tiêu chí quan trọng nhất để xác định một người là cán bộ khoa học.

Còn học vị khoa học nên hiểu là tiêu chí đánh giá trình độ kiến thức chuyên sâu của

một người nghiên cứu khoa học, là tiêu chuẩn dự báo năng lực nghiên cứu.

Để hiểu rõ hơn về khái niệm cán bộ khoa học, cần tìm hiểu thêm về hoạt

động nghiên cứu khoa học.

1.1.2. Hoạt động nghiên cứu khoa học

Các giáo trình môn Phương pháp nghiên cứu khoa học dành cho sinh viên

đại học nước ta hiện nay cùng chung định nghĩa: "Nghiên cứu khoa học là việc tìm

kiếm, xem xét, điều tra (kể cả làm thí nghiệm) để từ những dữ kiện có được (số

liệu, tài liệu, kiến thức đã có...) đạt đến một kết quả mới hơn, cao hơn, giá trị hơn".

Hoạt động nghiên cứu khoa học bao gồm ba mảng cấu thành. Đầu tiên là

công việc tìm kiếm, thu thập và xử lý thông tin. Người nghiên cứu thông qua các

công cụ và kỹ năng sử dụng công cụ của mình sẽ tìm kiếm thông tin cần thiết để

bắt đầu quá trình nghiên cứu. Đây là hoạt động hết sức quan trọng, tạo nên khối

lượng kiến thức rộng lớn, đồ sộ làm nền tảng trí tuệ cho người nghiên cứu. Sau khi

liên tục tìm kiếm, cập nhật các thông tin thì người nghiên cứu bắt đầu hình thành

các ý tưởng khoa học và thực hiện việc thu thập, sắp xếp thông tin theo những mối

liên hệ nhất định. Đây cũng là bước đầu tiên của quá trình xử lý thông tin nghiên

cứu. Trên cơ sở các thông tin thu thập và được sắp xếp, người nghiên cứu tìm hiểu

các vấn đề quan tâm theo các phương pháp khoa học, từ đó hình thành kiến thức

khoa học phục vụ quá trình đi đến mục tiêu nghiên cứu đã đề ra. Toàn bộ hoạt động

--- Trang 11 ---

này còn được gọi là "đầu tư quá khứ". Đây là hoạt động quan trọng, làm tiền đề cho

tất cả hoạt động nghiên cứu sau đó. Việc xử lý thông tin bằng nhiều phương pháp

khoa học khác nhau mang dấu ấn trí tuệ cá nhân đã trở thành bí quyết, mấu chốt

thành công của mỗi nhà khoa học.

Công việc tiếp theo của người nghiên cứu là tìm ra những vấn đề "trong quá

khứ", dùng các phương pháp nghiên cứu khoa học để tìm hiểu thực tại, khám phá

những quy luật mới, đưa ra những định đề, khái niệm khoa học mới...Từ đó giải

quyết mục tiêu nghiên cứu bằng các kết quả nghiên cứu. Đó có thể là chính những

khái niệm mới, định đề mới, quy luật mới tìm ra. Nhưng cũng có thể là những kiến

nghị có căn cứ khoa học để giải quyết những vấn đề của hiện tại. Đây là hoạt động

chính, hoạt động chủ yếu của nghiên cứu khoa học. Đây là quá trình mang tính hữu

ích đối với cuộc sống hay là sự phát triển. Nó là sự khai mở trí tuệ con người trên

những nấc thang tiến hoá của loài người.

Mảng hoạt động cuối cùng trong nghiên cứu khoa học là công bố kết quả

nghiên cứu. Các kết quả nghiên cứu được gọi là công trình nghiên cứu khoa học

chính là các kiến thức. Hình thức công bố kết quả nghiên cứu tuỳ thuộc vào sự phát

triển của xã hội, trong hàng thế kỷ nay, loài người biết đến những hình thức phổ

biến nhất là văn bia, sách, báo, tạp chí. Cũng cần nói thêm là vật liệu lưu giữ thông

tin khoa học truyền thống là đá, xương thú (mai rùa, xương cá...), mộc (gỗ, tre,

trúc...), đất nung và giấy. Ngày nay xuất hiện ngày càng nhiều các vật liệu mới để

lưu giữ thông tin bên cạnh các vật liệu truyền thống như băng từ, đĩa từ, đĩa quang

học...Có thể thấy xu hướng phát triển chung của các vật liệu này là ngày càng giảm

thể tích, khối lượng, đồng thời số lượng thông tin lưu giữ ngày càng tăng tính trong

một đơn vị vật liệu. Đi kèm với sự phát triển của vật liệu lưu giữ thông tin, công

nghệ trao đổi thông tin cũng phát triển nhanh và rất thuận tiện cho việc phổ biến

cũng như tìm kiếm các kết quả nghiên cứu khoa học.

--- Trang 12 ---

1.1.3. Kết luận mục 1.1

Những hiểu biết khái quát về cán bộ khoa học và hoạt động nghiên cứu khoa

học vừa nêu trên cho phép dẫn đến một số kết luận sau:

Một là, cán bộ khoa học của Học viện phải là những người tạo thành lực

lượng nghiên cứu khoa học của Học viện. Vì vậy cán bộ khoa học của Học viện

bao gồm tất cả những cán bộ, công chức Học viện có học vị từ cử nhân đại học trở

lên nhưng phải thuộc các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn.

Hai là, tương ứng với các mảng hoạt động nghiên cứu khoa học thì yêu cầu

đối với cán bộ khoa học Học viện để thực hiện được nhiệm vụ nghiên cứu là phải

có khả năng thu thập, sắp xếp và xử lí thông tin phục vụ nghiên cứu; khả năng phát

hiện vấn đề và nhìn nhận vấn để bắt đầu nghiên cứu; khả năng và phương pháp tư

duy; khả năng trình bày vấn đề khoa học: có kĩ thuật, rõ, dễ hiểu.

1.2. Khái niệm công nghệ thông tin

Tương tự khái niệm "cán bộ khoa học", CNTT cũng là khái niệm được nhắc

đến rất nhiều ở nước ta trong gần 20 năm nay. Thế nhưng không phải khái niệm

này đã được hiểu thống nhất trong mọi ngữ cảnh sử dụng và ngay cả trong giới

nghiên cứu.

1.2.1. Khái niệm

Khoản 1 điều 4 Luật Công nghệ thông tin năm 2006 giải thích "Công nghệ

thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, công nghệ và công cụ kỹ thuật hiện

đại để sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số". Có thể

hiểu định nghĩa này trong Luật một cách đơn giản và ngắn gọn là công nghệ về

thông tin số. Theo Bách khoa toàn thư mở (Wikipedia) thì "CNTT là ngành sử

dụng máy tính và phần mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền,

và thu thập thông tin. CNTT được xác định là một thuật ngữ bao trùm tất cả các

ngành có liên quan đến tin học". Hai khái niệm trên khác nhau ở hai điểm: trong

khi Luật Việt Nam không xác định phương tiện cụ thể áp dụng trong CNTT, và xác

--- Trang 13 ---

định rõ đối tượng của công nghệ đó là thông tin số, thì Wikipedia lại xác định cụ

thể công cụ hiện đại sử dụng trong CNTT là máy tính và phần mềm máy tính và

không xác định dạng thông tin cụ thể.

Lịch sử ra đời của ngành khoa học CNTT cho thấy ngành này có sự khởi

nguồn từ Tin học. Từ "tin học" đã được dịch từ informatique trong tiếng Pháp. Từ

informatics trong tiếng Anh cũng bắt nguồn từ từ tiếng Pháp này, nhưng theo thời

gian informatics đã mang nghĩa khác dần với nghĩa ban đầu và hầu như chỉ còn

được dùng phổ biến tại châu Âu. Ngày nay, thuật ngữ tiếng Anh tương đương với

informatique là computer science, nghĩa là "khoa học về máy tính". Liên quan đến

Tin học có nhiều thuật ngữ có nghĩa gần giống nhau và dễ bị nhầm lẫn ví dụ như:

Khoa học máy tính (ngành nghiên cứu các cơ sở lý thuyết của tin học như thuật

toán, ngôn ngữ hình thức, lý thuyết đồ thị, đồ họa máy tính... nghĩa là chỉ có liên

quan gián tiếp đến phần mềm và máy tính); Kỹ thuật máy tính (nghiên cứu về việc

chế tạo và sử dụng các thiết bị tin học); Kỹ nghệ phần mềm (nghiên cứu về việc mô

hình hóa và phát triển phần mềm, hay còn được gọi là Công nghệ phần mềm).

Theo Wikipedia, Tin học là ngành nghiên cứu về việc tự động hóa xử lý

thông tin bởi một hệ thống máy tính cụ thể hoặc trừu tượng. Người ta có thể làm

việc với tin học bằng bất cứ một hệ thống nào hoạt động tương tự với các mạch

lôgic: các máy cơ học (chẳng hạn máy tính Pascal và ô-tô-mát), máy khí động, hệ

thống thủy lực... Những chương trình tin học đầu tiên được viết từ trước sự ra đời

của máy tính rất lâu. Một số phân nhánh quan trọng của Tin học là Khoa học máy

tính; Công nghệ phần mềm; Phương pháp số; Hệ điều hành; Phân tích hệ thống; Cơ

sở dữ liệu và Cấu trúc dữ liệu; Kiến trúc máy tính; Mạng máy tính; Tính toán khoa

học. Ngoài ra ngành tin học có quan hệ chặt chẽ với nhiều ngành khác. Các ngành

này có nhiều phần chung, tuy vẫn khác nhau ở nhiều điểm quan trọng:

Thuật toán: là dãy thao tác lệnh mà sau một số bước hữu hạn từ dữ liệu đầu

vào (input) đã cho, ta có dữ liệu đầu ra (output).

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!