Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

một số giải pháp nâng cao hiệu quả  phúc thẩm các vụ án hình sự ở nước ta
MIỄN PHÍ
Số trang
176
Kích thước
661.4 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1158

một số giải pháp nâng cao hiệu quả phúc thẩm các vụ án hình sự ở nước ta

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Đổi mới bộ máy nhà nước nói chung và các cơ quan tư pháp nói

riêng là một trong những nội dung quan trọng của công cuộc xây dựng Nhà

nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Trung ương 8

khoá VII của Đảng đã đề ra các quan điểm cơ bản về đổi mới bộ máy nhà

nước nói chung và các cơ quan tư pháp nói riêng. Các quan điểm này được

tiếp tục khẳng định và phát triển trong các văn kiện Đại hội và các Nghị

quyết Trung ương của Đảng ta trong những năm gần đây.

Về hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách tư pháp, trong văn kiện

Đại hội VIII của Đảng đã chỉ rõ:

… Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản

pháp luật làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ

quan tư pháp trước yêu cầu đổi mới như các Bộ luật: dân sự, tố

tụng dân sự, tố tụng hình sự (sửa đổi) và các luật, pháp lệnh về

xử phạt vi phạm hành chính,... bảo đảm cho mọi vi phạm đều bị

xử lý, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, bảo đảm

quyền làm chủ của công dân,... [11, tr. 130].

Đại hội IX của Đảng đã đề ra các biện pháp tiến hành cải cách tư

pháp ở nước ta là:

... Tiếp tục cải cách, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt

động của các cơ quan tư pháp theo nguyên tắc nâng cao tinh thần

trách nhiệm, làm tốt công tác điều tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét

xử, không để xảy ra những trường hợp oan sai... Sắp xếp tại hệ

thống TAND, phân định thẩm quyền một cách hợp lý theo

nguyên tắc tổ chức TA theo cấp xét xử, tăng cường thẩm phán ở

1

những địa bàn trọng điểm, quy định rõ tiêu chuẩn, trách nhiệm và

thẩm quyền của hội thẩm nhân dân. TANDTC làm nhiệm vụ

hướng dẫn áp dụng pháp luật và thực hiện công tác giám sát xét

xử các bản án, quyết định đã có HLPL... [13, tr. 295-296].

Các yêu cầu về cải cách tư pháp và nhiệm vụ trọng tâm công tác tư

pháp trong giai đoạn hiện nay được Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung

ương Đảng ta chỉ rõ trong Nghị quyết số 08/NQ/TƯ ngày 02/01/2002:

Khi xét xử phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng

trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan, thẩm phán và hội

thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết

của TA phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa

trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của

kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên

đơn, bị đơn, người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản

án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời

hạn pháp luật quy định... [2].

Các quan điểm trên của Đảng về cải cách tư pháp ở nước ta đã từng

bước được thể chế hóa trong các văn bản pháp luật được Quốc hội thông

qua trong thời gian gần đây như BLHS 1999, BLTTHS sửa đổi năm 2000,

Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2002, Luật tổ chức TAND và Luật tổ chức

VKSND năm 2002, BLTTHS sửa đổi năm 2003,... Đây là cơ sở pháp lý để

chúng ta tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói

chung và các TAND nói riêng.

BLTTHS đầu tiên của nước ta được ban hành năm 1988 và có hiệu

lực thi hành từ 01/01/1989 là kết quả tổng kết kinh nghiệm của hơn 40 hoạt

động tư pháp hình sự. Bước đầu Bộ luật đã thể hiện đường lối đổi mới

theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV. Bộ luật đã

phát huy tác dụng tích cực trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm,

2

bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm cho hoạt

động của các cơ quan tiến hành tố tụng đạt được mục đích và nhiệm vụ đặt

ra: "... phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi

hành vi phạm tội không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội..., bảo

vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân...". BLTTHS đã ba lần được

sửa đổi, bổ sung (7/1990, 12/1992 và 6/2000) để đáp ứng kịp thời yêu cầu

của thực tiễn.

Tuy nhiên, sau 15 năm áp dụng, bên cạnh những kết quả đạt được,

nhiều quy định của BLTTHS hiện hành nói chung và các quy định về phúc

thẩm nói riêng đã bộc lộ nhiều bất cập. Trong thực tiễn, các TA cấp phúc

thẩm rất vướng mắc khi áp dụng các quy định BLTTHS về phạm vi xét xử

phúc thẩm, về bổ sung, thay đổi và rút kháng cáo, kháng nghị; giải quyết

vấn đề kháng cáo quá hạn; áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn

chặn tạm giam,... Việc quy định một thủ tục xét xử phúc thẩm áp dụng

chung đối với tất cả các vụ án đã làm cho hoạt động xét xử phúc thẩm trở

thành quá tải, quá thời hạn luật định dẫn đến sự tồn đọng án trong những

năm gần đây ở các TA cấp phúc thẩm, đặc biệt là ở TANDTC. Điều đó ảnh

hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội

phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng, không bảo vệ kịp thời lợi ích của

Nhà nước, của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Nguyên nhân của tình trạng này là do một số quy định của BLTTHS

về phúc thẩm chưa đầy đủ, cụ thể và rõ ràng. Cơ quan có thẩm quyền cũng

chưa hướng dẫn kịp thời, đầy đủ về việc áp dụng các quy định BLTTHS

dẫn đến nhận thức và áp dụng có nhiều vướng mắc. Mặt khác, hệ thống tổ

chức và hoạt động của các TA cấp phúc thẩm; trình độ nghiệp vụ và năng

lực của đội ngũ thẩm phán và kiểm sát viên và các bảo đảm khác cho hoạt

động của các TA và VKS cấp phúc thẩm cũng còn nhiều hạn chế.

BLTTHS (sửa đổi) được thông qua ngày 18/11/2003 tại kỳ họp thứ 4

Quốc hội khóa XI là một bước phát triển mới trong quá trình hoàn thiện hệ

3

thống pháp luật nước ta nói chung và pháp luật TTHS nói riêng. Việc sửa

đổi bổ sung BLTTHS lần này được tiến hành tương đối đồng bộ, toàn diện

và về cơ bản đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta theo tinh

thần Nghị quyết số 08/NQ-TƯ của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung

ương Đảng. Tuy nhiên, về cơ bản các quy định về phúc thẩm trong

BLTTHS sửa đổi vẫn như trước đây, do đó chưa khắc phục được những bất

cập, tồn tại và vướng mắc trong thực tiễn. Vì vậy, việc nghiên cứu làm sáng

tỏ về mặt lý luận và các quy định pháp luật TTHS về phúc thẩm; chỉ ra

những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn và nguyên nhân, trên cơ sở đó

đưa ra được các căn cứ khoa học nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định về

phúc thẩm vẫn là một yêu cầu cấp thiết của khoa học luật TTHS hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Phúc thẩm trong TTHS là một vấn đề có nội dung rộng và phức tạp

của khoa học luật TTHS. Vấn đề này đã được một số nhà khoa học pháp lý

ở nước ta và trên thế giới quan tâm nghiên cứu. Trong sách báo pháp lý của

nước ta đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này ở những mức độ

và phạm vi khác nhau. Có thể chia các công trình này thành ba nhóm sau:

Các công trình nghiên cứu trực tiếp về phúc thẩm trong TTHS như:

"Một số vấn đề về luật tố tụng hình sự" của tác giả Võ Thọ, Nxb Pháp lý,

Hà Nội, 1985; "Giáo trình Luật tố tụng hình sự" của Trường Đại học Luật

Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, 1999; "Thủ tục phúc thẩm trong luật tố

tụng hình sự Việt Nam" của Đinh Văn Quế, Nxb Chính trị quốc gia, 1998;

một số luận văn thạc sĩ luật học như "Thủ tục xét xử phúc thẩm trong tố

tụng hình sự Việt Nam" của Nguyễn Gia Cương, 1998; "Phúc thẩm trong

tố tụng hình sự Việt Nam" của Phan Thị Thanh Mai, 1998; "Thẩm quyền

của Tòa án cấp phúc thẩm trong tố tụng hình sự" của Nguyễn Văn Tiến,

1998; "Giai đoạn xét xử phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam -

Những vấn đề lý luận và thực tiễn" của Huỳnh Lập Thành, 2001;...

4

Các công trình nghiên cứu về các khía cạnh khác nhau của phúc

thẩm trong TTHS như: Luận án tiến sĩ luật học "Thẩm quyền của Tòa án

các cấp trong tố tụng hình sự" của Nguyễn Văn Huyên, 2002; "Những vấn

đề cần trao đổi từ thực tế xét xử phúc thẩm về hình sự" của TS. Từ Văn

Nhũ (Tạp chí TAND, số 3/2001); "Những vấn đề tồn tại trong giai đoạn

chuẩn bị xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự và những kiến nghị nhằm

hoàn thiện" của TS. Dương Ngọc Ngưu (Tạp chí TAND, số 11/2000 và số

01/2001); "Thủ tục phiên tòa phúc thẩm có gì khác với phiên tòa sơ thẩm"

của ThS. Mai Bộ (Tạp chí TAND, số 9/1995); "Quyền hạn của Tòa án khi

xét xử phúc thẩm" và "Sửa bản án sơ thẩm theo Điều 221 Bộ luật tố tụng

hình sự" của Hoàng Thị Sơn (Tạp chí Luật học, số 6/1997 và 5/1999);

"Hoàn thiện pháp luật về xét xử phúc thẩm trong tố tụng hình sự" của ThS.

Nguyễn Nông (Tạp chí TAND, số 8/1994); "Việc Tòa án cấp phúc thẩm

sửa án sơ thẩm từ không có tội thành có tội theo khoản 3 Điều 221 Bộ luật

tố tụng hình sự" của Phạm Văn Khánh (Tạp chí Kiểm sát, số 7/1999);...

Các công trình nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến phúc thẩm

trong TTHS: "Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành Tòa án

nhân dân" của tác giả Phạm Hưng (Tạp chí TAND, số 10 và số 11/1997);

"Vấn đề thực tiễn, lý luận và yêu cầu hoàn thiện thẩm quyền xét xử giám

đốc thẩm các vụ án hình sự của Tòa án các cấp" và "Vấn đề giới hạn xét

xử của Tòa án nhân dân" của TS. Nguyễn Văn Hiện (Tạp chí TAND, số

4/1997 và số 8/1999); "Về các căn cứ đổi mới tổ chức và hoạt động của

Tòa án các cấp" của PGS.TS Trần Văn Độ (Tạp chí Luật học, số 3/1997);

"Vai trò của Tòa án trong hệ thống các cơ quan tư pháp" của PGS.TS

Phạm Hồng Hải (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 1/2001); "Vài nét về

quá trình hình thành và phát triển của Tòa án nhân dân" của TS. Đặng

Quang Phương (Tạp chí TAND, số 6/1995);...

Một số nhà khoa học pháp lý trên thế giới cũng nghiên cứu về vấn

đề này và quan điểm của họ cũng rất khác nhau, trong số đó có các nhà

5

khoa học pháp lý Xô viết như: "Giáo trình tố tụng hình sự Xô viết" của

GS.TS Stơrogovích M. C., Nxb Khoa học pháp lý, Matxcơva, 1980; "Phúc

thẩm trong tố tụng hình sự Xô viết" của GS.TS Pêrơlốp V. Đ., Nxb Pháp lý,

Mátxcơva, 1968; "Bảo vệ quyền lợi của bị cáo trong xét xử phúc thẩm" của

GS.TS Martưnchích E. G., Nxb. Kisinhốp, 1979;...

Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách

toàn diện, đầy đủ và có hệ thống về phúc thẩm trong TTHS, chưa đưa ra

được khái niệm hoàn chỉnh, đầy đủ và chính xác về phúc thẩm trong

TTHS.

Tất cả các luận điểm nêu trên là lý do để tác giả lựa chọn "Phúc

thẩm trong tố tụng hình sự" làm đề tài luận án tiến sĩ luật học của mình.

3. Mục đích, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Mục đích nghiên cứu của đề tài: trên cơ sở phân tích các quan điểm

khác nhau về phúc thẩm trong TTHS, các xu hướng điều chỉnh vấn đề này

trong pháp luật của các nước và ở nước ta trước và sau khi ban hành

BLTTHS 1988, những tồn tại và vướng mắc trong thực tiễn phúc thẩm

những năm gần đây, tác giả đặt ra cho mình mục đích nghiên cứu một cách

đầy đủ, toàn diện và có hệ thống các nội dung của phúc thẩm trong TTHS

nhằm làm sáng tỏ về mặt lý luận, đồng thời chỉ ra những khiếm khuyết về

mặt lập pháp, những tồn tại, vướng mắc trong nhận thức và áp dụng các

quy định hiện hành về phúc thẩm. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp

nhằm nâng cao hiệu quả phúc thẩm các vụ án hình sự ở nước ta.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài: phúc thẩm là vấn đề có nội dung

rộng và phức tạp của khoa học luật TTHS. Vì vậy, trong phạm vi của luận

án không thể xem xét toàn diện tất cả các nội dung của vấn đề. Tác giả chỉ

dừng lại ở việc nghiên cứu một số nội dung cơ bản của phúc thẩm mà

chúng chưa được làm sáng tỏ một cách toàn diện và có hệ thống về mặt lý

luận; các quy định pháp luật TTHS của nước ta về phúc thẩm từ 1945 đến

6

nay; thực trạng phúc thẩm các vụ án hình sự ở nước ta, những tồn tại,

vướng mắc và nguyên nhân. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nâng

cao hiệu quả phúc thẩm các vụ án hình sự ở nước ta.

Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: luận án tập trung giải quyết một số

nhiệm vụ cơ bản sau đây:

- Làm rõ bản chất pháp lý, chức năng, nhiệm vụ và vai trò của phúc

thẩm trong việc thực hiện mục đích và nhiệm vụ đặt ra của TTHS; làm

sáng tỏ về mặt lý luận một số nội dung cơ bản của phúc thẩm: bản chất của

phúc thẩm; thẩm quyền của TA cấp phúc thẩm và thủ tục xét xử phúc thẩm.

Từ đó đưa ra khái niệm đầy đủ, hoàn chỉnh và khoa học về phúc thẩm;

- Khái quát về quá trình phát triển của pháp luật TTHS Việt Nam về

phúc thẩm trước khi ban hành BLTTHS 1988; phân tích làm sáng tỏ nội

dung các quy định pháp luật TTHS hiện hành về phúc thẩm có so sánh với

BLTTHS sửa đổi mới được thông qua ngày 18/11/2003 tại kỳ họp thứ 4

Quốc hội khóa XI;

- Khái quát về thực trạng phúc thẩm ở nước ta những năm gần đây;

chỉ ra những tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn và nguyên nhân để từ đó đề

xuất một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật TTHS về phúc thẩm và

nâng cao hiệu quả phúc thẩm.

4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài

Đề tài nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của

chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và

Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, về cải cách tư

pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Tác

giả đã vận dụng các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật

lịch sử để phân tích làm sáng tỏ các nội dung nghiên cứu.

7

Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp với một số phương pháp

nghiên cứu cụ thể như: phương pháp hệ thống, so sánh, phân tích - tổng

hợp, thống kê, lịch sử, lôgíc - pháp lý,... để phân tích có phê phán các quan

điểm khác nhau về vấn đề nghiên cứu. Tác giả đã tiến hành khảo sát và thu

thập số liệu thống kê về thực tiễn phúc thẩm các vụ án hình sự ở TANDTC,

một số TA cấp tỉnh và Viện phúc thẩm I VKSNDTC những năm gần đây.

Những luận điểm khoa học trong luận án của tác giả được phát triển

dựa trên các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học pháp lý ở nước ta

và một số nước khác trên thế giới.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

Đề tài có ý nghĩa lớn về lý luận và thực tiễn. Trước hết, đây là công

trình chuyên khảo đầu tiên trong sách báo pháp lý nước ta nghiên cứu một

cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về phúc thẩm trong TTHS. Kết quả

nghiên cứu của luận án góp phần phát triển lý luận về phúc thẩm trong TTHS.

Ý nghĩa thực tiễn của đề tài là đã đưa ra được các luận cứ khoa học

và các giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật TTHS về phúc thẩm và

nâng cao hiệu quả phúc thẩm các vụ án hình sự ở nước ta. Luận án có thể

sử dụng làm tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập và giảng dạy

trong các trường chuyên luật. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng

để tham khảo trong quá trình tiếp tục hoàn thiện BLTTHS sửa đổi và trong

thực tiễn.

6. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ

lục, nội dung của luận án gồm ba chương, 7 mục.

8

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÚC THẨM

TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1. BẢN CHẤT CỦA PHÚC THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1.1. Khái niệm phúc thẩm trong tố tụng hình sự

1.1.1.1. Sự ra đời của chế định phúc thẩm và ý nghĩa của nó

Tư pháp hình sự là một lĩnh vực hoạt động đặc thù của các cơ quan

nhà nước có thẩm quyền nhằm thực hiện quyền lực nhà nước - quyền tư

pháp. Đây cũng là lĩnh vực rất nhạy cảm, bởi vì, nó trực tiếp đụng chạm

đến các quyền tự do và dân chủ (kể cả tính mạng) của công dân. Mọi sai

lầm dù lớn hay nhỏ trong quá trình xử lý đối với người thực hiện hành vi bị

coi là tội phạm đều có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, thậm chí

có thể không bao giờ khắc phục được. Bởi vậy, bảo vệ các quyền và lợi ích

hợp pháp của công dân, đặc biệt là của bị can, bị cáo là một trong những

nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nhằm đạt được mục đích đặt ra của TTHS là

"phát hiện nhanh chóng, chính xác và xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi

hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội,…

bảo vệ các quyền và lợi ích của công dân". Đây cũng là một nội dung cấp

thiết của việc bảo vệ quyền con người nói chung mà mỗi quốc gia cũng như

cộng đồng quốc tế đều quan tâm giải quyết.

Trong Tuyên ngôn Viên và chương trình hành động được thông qua

ngày 25/6/1993 tại Hội nghị thế giới về Nhân quyền đã nhấn mạnh:

Quyền con người và các quyền tự do cơ bản là quyền của

mọi người được hưởng khi sinh ra; việc thúc đẩy và bảo vệ các

quyền đó là trách nhiệm trước tiên của các chính phủ... Việc đề

cao và bảo vệ quyền con người và các quyền tự do cơ bản phải

9

được coi là một mục tiêu ưu tiên của Liên hợp quốc..., là mối

quan tâm chính đáng của cộng đồng quốc tế... [25, tr. 657].

Vì vậy, các quốc gia đều chú ý điều chỉnh bằng pháp luật quá trình

truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội, đặc

biệt là hoạt động xét xử các vụ án hình sự, nhằm tạo ra một cơ chế kiểm

tra, giám sát chặt chẽ có hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp, phát

hiện và khắc phục kịp thời các sai sót về xét xử của các TA cấp dưới. Phúc

thẩm trong TTHS là một trong các hình thức, phương tiện được các nước

sử dụng nhằm đạt được mục đích này.

Sự hình thành và phát triển của chế định phúc thẩm trong TTHS gắn

liền với sự hình thành và phát triển các tư tưởng, các nguyên tắc dân chủ và

tiến bộ của TTHS như: nguyên tắc công bằng; nhân đạo; suy đoán vô tội;

bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo; xét xử công khai, trực tiếp và

bằng lời nói;... Vì vậy, chế định phúc thẩm trong TTHS không thể tồn tại

trong xã hội mà ở đó không có nền dân chủ.

Cùng với sự phát triển của xã hội loài người theo xu hướng ngày

càng dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội (trong đó bao gồm cả lĩnh vực

TTHS), các nguyên tắc nói trên ngày càng được bổ sung và hoàn thiện.

Đến lượt mình, các nguyên tắc này tác động trở lại ở mức độ và phạm vi

khác nhau đối với sự ra đời, phát triển và ngày càng hoàn thiện các chế

định của TTHS, trong đó có chế định phúc thẩm.

Bản chất dân chủ và tiến bộ là một trong những thuộc tính quan

trọng của hệ thống tư pháp hình sự hiện đại. Sự ra đời của chế định phúc

thẩm là một nhu cầu tất yếu khách quan xuất phát từ bản chất của TTHS

nhằm bảo vệ ngày càng có hiệu quả hơn quyền con người, các quyền tự do

cơ bản của công dân trong lĩnh vực đặc thù này. Nền tư pháp không thể gọi

là dân chủ và tiến bộ, nếu trong đó thiếu các bảo đảm pháp lý cần thiết để

10

bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cả ở phương diện cá

nhân người phạm tội cũng như ở phương diện Nhà nước.

Với tính cách là nguyên tắc chung của pháp luật, nguyên tắc công bằng

tác động mạnh mẽ đối với lĩnh vực áp dụng pháp luật hình sự. PGS.TS Võ

Khánh Vinh đã rất có lý khi cho rằng, nguyên tắc công bằng đòi hỏi khi

quyết định hình phạt phải bảo đảm sự tương xứng của hình phạt được tuyên

với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện,

với các đặc điểm của nhân thân người phạm tội, với các tình tiết tăng nặng

và giảm nhẹ trách nhiệm, với dư luận xã hội, với ý thức pháp luật [78, tr. 105].

Mặt khác, nguyên tắc công bằng cũng đòi hỏi trong những điều kiện và

hoàn cảnh phạm tội giống nhau, thì người phạm tội phải bị kết án và xử

phạt như nhau. Tuy nhiên, trên thực tế đòi hỏi này lại rất khó đạt được do

những nguyên nhân khách quan và chủ quan rất khác nhau: không thống

nhất giữa các thẩm phán, giữa các TA về nhận thức và áp dụng pháp luật,

đặc biệt là các quy định mang tính chất đánh giá tùy nghi. Để giảm bớt sự

khác biệt trong việc tuyên phạt đối với người phạm tội giữa các TA và giữa

các thẩm phán với nhau, cần có một trình tự (thủ tục tố tụng) mà theo đó

nếu bị cáo và đương sự không đồng ý với bản án (quyết định) chưa có

HLPL của TA cấp dưới, thì có thể yêu cầu TA cấp cao hơn xem xét lại

phán quyết đó. Thủ tục tố tụng này chính là thủ tục xét xử phúc thẩm.

Sự ra đời của TA cấp phúc thẩm còn xuất phát từ quan niệm của các

nhà lập pháp cho rằng việc xét xử lại các vụ án có kháng cáo, kháng nghị ở

TA cấp trên sẽ hạn chế được những sai sót về xét xử của các thẩm phán

Tòa sơ thẩm. TA cấp trên sẽ xử đúng công lý hơn vì Tòa này gồm những

thẩm phán cao niên, có kinh nghiệm hơn và ở xa các đương sự nên không

chịu ảnh hưởng địa phương. Nguyên tắc hai cấp xét xử còn bắt buộc các

thẩm phán Tòa cấp dưới phải thận trọng trong việc xét xử, nếu không án

văn sẽ bị Tòa cấp trên tiêu hủy [27, tr. 67].

11

Như vậy, có thể thấy rằng, sự ra đời của chế định phúc thẩm trong

TTHS là một nhu cầu tất yếu khách quan của xã hội loài người phát triển

đến một trình độ nhất định. Nó gắn liền với sự hình thành và phát triển của

các tư tưởng, các nguyên tắc dân chủ và tiến bộ của TTHS. Trong điều kiện

ngày nay, dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội đang trở thành xu hướng

phát triển tất yếu của các quốc gia, chế định phúc thẩm trong TTHS ngày

càng được hoàn thiện và trở thành một trong các hình thức, phương tiện

pháp lý hữu hiệu được các nước sử dụng rộng rãi nhằm bảo vệ có hiệu quả

hơn các quyền và tự do cơ bản của công dân.

Với ý nghĩa đó, phúc thẩm có vai trò vô cùng quan trọng thể hiện ở

một số điểm cơ bản sau đây:

Một là, phúc thẩm là một trong những hình thức giám đốc xét xử chủ

yếu của TA cấp trên đối với TA cấp dưới. Thông qua việc xét xử lại vụ án

mà bản án hoặc quyết định chưa có HLPL bị kháng cáo, kháng nghị, TA cấp

phúc thẩm không chỉ kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án

(quyết định) sơ thẩm chưa có HLPL mà còn có phát hiện và khắc phục kịp

thời các vi phạm nghiêm trọng về xét xử của TA cấp dưới. Theo thống kê,

số vụ án hình sự được xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm trung bình hàng

năm chiếm gần 30% số vụ án đã xét xử sơ thẩm, trong số đó, các TA cấp

phúc đã sửa, hủy án sơ thẩm hoặc tuyên bị cáo vô tội đối với khoảng 25 -

30% số bị cáo (xem Phụ lục số 2 và 3). Bằng quyền hạn của mình, TA cấp

phúc thẩm ngăn chặn việc đưa ra thi hành các bản án, quyết định có vi

phạm pháp luật, góp phần pháp chế XHCN.

Hai là, phúc thẩm là một trong những chế định thể hiện rõ nét nhất

bản chất dân chủ và tiến bộ của TTHS. Chế định này buộc các TA cấp sơ

thẩm phải thận trọng và tuân thủ nghiêm chỉnh các yêu cầu về tính hợp

pháp và có căn cứ khi ra bản án hoặc quyết định về vụ án. Nó không cho

phép người đã kháng cáo hoặc VKS đã kháng nghị được bổ sung, thay đổi

12

kháng cáo theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo; không cho phép

TA cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng làm xấu hơn tình trạng

của bị cáo, nếu không có kháng cáo của người bị hại hoặc kháng nghị theo

hướng đó.

Ba là, khi có kháng cáo hoặc kháng nghị đối với bản án, quyết định

chưa có HLPL, TA cấp phúc thẩm phải đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn

nhất định. Vì vậy, phúc thẩm còn là một trong các phương tiện hữu hiệu để

bảo vệ kịp thời và có hiệu quả lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các quyền

và lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là của bị cáo.

Bốn là, thông qua việc xét xử các vụ án, TA cấp phúc thẩm hướng

dẫn cho các TA cấp dưới và các cơ quan tiến hành tố tụng khác trong việc

nhận thức và áp dụng đúng đắn, thống nhất pháp luật; góp phần nâng cao

chất lượng xét xử các vụ án hình sự, tăng cường hiệu quả giáo dục pháp

luật và củng cố niềm tin vào công lý cho quần chúng nhân dân, đấu tranh

phòng và chống tội phạm.

1.1.1.2. Khái niệm phúc thẩm trong TTHS

Trong khoa học luật TTHS, khái niệm phúc thẩm có thể được hiểu ở

các góc độ khác nhau cả ở nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp, thì

khái niệm phúc thẩm có thể được hiểu với một trong các nghĩa sau đây:

phúc thẩm là một giai đoạn của TTHS (giai đoạn phúc thẩm); phúc thẩm là

một chế định (chế định phúc thẩm) của TTHS và phúc thẩm là một thủ tục

tố tụng (thủ tục xét xử phúc thẩm). Theo nghĩa rộng, khái niệm phúc thẩm

được hiểu cả ở ba nghĩa (nội dung) nêu trên: phúc thẩm là một giai đoạn,

một chế định của TTHS đồng thời là một thủ tục xét xử. Hay nói cách

khác, khái niệm phúc thẩm trong TTHS bao gồm các yếu tố (nội dung) cấu

thành nêu trên. Như vậy, xét về nội hàm, thì "phúc thẩm" là khái niệm rộng

nhất, trong đó bao hàm các khái niệm hẹp: "Giai đoạn phúc thẩm", "chế

định phúc thẩm" và "thủ tục xét xử phúc thẩm". Khi nói về phúc thẩm với

13

nghĩa là một giai đoạn, một chế định của TTHS hoặc một thủ tục xét xử,

tức là mới chỉ xem xét ở một góc độ nào đó của phúc thẩm (theo nghĩa hẹp

của khái niệm này). Vì vậy, để có khái niệm đầy đủ về phúc thẩm hình sự,

cần phải làm sáng tỏ các nội dung (yếu tố) cấu thành khái niệm "phúc

thẩm".

1- Giai đoạn phúc thẩm: Quá trình giải quyết các vụ án hình sự (quá

trình TTHS) được phân thành các giai đoạn có tính độc lập tương đối kế

tiếp và liên quan chặt chẽ với nhau. Giai đoạn tố tụng trước là tiền đề cho

giai đoạn tố tụng sau. Ví dụ, để có thể đưa một vụ án ra xét xử thì phải có

quyết định truy tố của VKS đối với các bị cáo trong vụ án đó và muốn truy

tố thì phải có kết luận của cơ quan điều tra về vụ án. Ngoài các đặc điểm

chung, mỗi giai đoạn tố tụng có một số dấu hiệu đặc trưng của riêng mình.

So với các giai đoạn tố tụng khác, giai đoạn phúc thẩm có một số đặc điểm

đặc trưng sau đây:

- Nhiệm vụ trực tiếp của phúc thẩm là kiểm tra tính hợp pháp và có

căn cứ của các bản án, quyết định sơ thẩm chưa có HLPL đồng thời xem

xét lại vụ án về nội dung;

- Giai đoạn phúc thẩm có phạm vi xác định các chủ thể tiến hành và

tham gia tố tụng đặc trưng bao gồm: TA cấp phúc thẩm, VKS cấp phúc

thẩm; những người có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật; những

người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị và những người tham gia tố

tụng khác mà TA cấp phúc thẩm thấy cần thiết triệu tập tham gia phiên tòa.

Ngoài ra, ở một mức độ nhất định, chủ thể tham gia ở giai đoạn tố tụng này

còn bao gồm cả TA cấp sơ thẩm (trong việc thông báo kháng cáo, kháng

nghị, xác minh lý do kháng cáo quá hạn) và VKS cấp sơ thẩm (trong việc

kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm chưa có HLPL);

- Các thủ tục tố tụng được tiến hành ở giai đoạn phúc thẩm có những

đặc thù: về thủ tục kháng cáo, kháng nghị và thông báo kháng cáo, kháng

14

nghị; thành phần HĐXX phúc thẩm chỉ bao gồm các thẩm phán chuyên

nghiệp (trừ trường hợp cần thiết mới có hội thẩm nhân dân tham gia); ngoài

các thủ tục giống như phiên tòa sơ thẩm, thủ tục phiên tòa phúc thẩm có

một số đặc thù: phiên tòa phúc thẩm được khai mạc không phải đọc quyết

định đưa vụ án ra xét xử; trước khi tiến hành xét hỏi, việc công bố cáo

trạng của kiểm sát viên được thay thế bằng việc một thành viên HĐXX

phúc thẩm tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm, nội dung

kháng cáo, kháng nghị; việc luận tội của kiểm sát viên ở phần tranh luận

được thay thế bằng việc trình bày kết luận của VKS về hình thức và nội

dung kháng cáo, kháng nghị; về tính hợp pháp và có căn cứ của bản án

(quyết định) sơ thẩm; đề nghị chấp nhận hay bác kháng cáo, kháng nghị...

- Đặc điểm đặc trưng của các quan hệ pháp luật tố tụng giữa các cơ

quan tiến hành tố tụng: giữa TA cấp sơ thẩm và TA cấp phúc thẩm (trong

việc thông báo kháng cáo, kháng nghị; xác minh lý do kháng cáo quá

hạn,...; giữa VKS cấp sơ thẩm và VKS cấp phúc thẩm (trong việc kháng

nghị bản án sơ thẩm); TA cấp phúc thẩm và VKS cấp phúc thẩm trong quá

trình giải quyết vụ án;...

- Hình thức thể hiện kết quả giải quyết vụ án ở giai đoạn tố tụng này:

bản án phúc thẩm hoặc quyết định phúc thẩm (đình chỉ việc xét xử phúc

thẩm, đình chỉ vụ án,...).

Với tư cách là một giai đoạn độc lập và bắt buộc của quá trình

TTHS, giai đoạn phúc thẩm tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào việc

bản án sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hay không. Đây là giai đoạn tiếp

theo của giai đoạn xét xử sơ thẩm. Nó được bắt đầu ngay sau khi bản án sơ

thẩm được tuyên và kết thúc khi bản án, quyết định sơ thẩm có HLPL hoặc

được thay thế bằng bản án, quyết định phúc thẩm.

Có ý kiến cho rằng, phúc thẩm không phải là một giai đoạn độc lập

của quá trình TTHS mà phụ thuộc vào việc có hay không có kháng cáo,

15

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!