Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Một số giải pháp nâng cao công tác quản lý Ngân sách xã trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn.doc
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
LuËn v¨n tèt nghiÖp Häc viÖn tµi chÝnh
MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế thế giới là một tiến trình quan trọng trên con
đường phát triển của dân tộc Việt Nam, mở ra thời kỳ mới với những
vận hội mới cho đất nước. Hệ thống tài chính quốc gia là một trong
những khâu quan trọng nhất để nền kinh tế có thể hội nhập thành công
và Ngân sách Nhà nước đóng một vai trò đặc biệt giúp cho Nhà nước
Việt Nam thực hiện tốt nhiệm vụ, chức năng của mình.
Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002 ra đời, có hiệu lực năm 2004
thay thế cho luật Ngân sách Nhà nước năm 1996 và luật sửa đổi một số
điều của luật Ngân sách Nhà nước năm 1998 là cơ sở pháp lý quan
trọng phát huy hiệu quả công tác quản lý Ngân sách Nhà nước. Đồng
thời, thể hiện sự tập trung, thống nhất, phân cấp mạnh mẽ tăng cường
quyền chủ động tài chính cho chính quyền cấp xã, nâng cao hiẹu quả
công tác quản lý Ngân sách xã. Bên cạnh đó, công tác quản lý Ngân
sách xã còn nhiều tồn tại ảnh hưởng tới hiẹu quat của quản lý, làm cho
Ngân sách xã chưa thực sự phát huy được vai trò quan trọng trong hệ
thống các cấp Ngân sách Nhà nước, chưa đảm bảo huy động đủ nguồn
nhân lực tài chính, giúp chính quyền cấp xã hoàn thành tốt chức năng,
nhiệm vụ của mình. Chính vì vậy, làm sao để tìm hiểu rõ được nguyên
nhân từ đó đưa ra được giải pháp nâng cao công tác quản lý Ngân sách
xã có một ý nghĩa quan trọng.
Trong thời gian thực tập tại Sở Tài chính tỉnh Bắc Kạn, em đã
nhận thấy công tác quản lý Ngân sách xã trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn đã
có nhiều sự đổi mới so với trước đây. Ý thức được vai trò quan trọng
Sv: Hoµng ThÞ YÕn 1 Líp: K42/01.04
LuËn v¨n tèt nghiÖp Häc viÖn tµi chÝnh
của công tác quản lý Ngân sách xã trên địa bàn, em đã chọn đề tài luận
văn: “Một số giải pháp nâng cao công tác quản lý Ngân sách xã
trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn”
Mục tiêu của đề tài nhằm đánh giá một cách tổng quát công tác
quản lý Ngân sách xã trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn thời gian qua để từ đó
đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Ngân sách xã.
Kết cấu đề tài gồm 3 chương.
Chương 1: Ngân sách xã và sự cần thiết phải nâng cao công tác
quản lý Ngân sách xã.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý Ngân sách xã trên địa
bàn tỉnh Bắc Kạn.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao công tác quản lý Ngân
sách xã trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn.
Trong quá trình viết luận văn, em đã được sự giúp đỡ của cán bộ
phòng Ngân sách Sở Tài chính tỉnh Bắc Kạn, sự chỉ bảo tận tình của
các thầy cô giáo tạo điều kiện cho em tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn
thiện luận văn tốt nghiệp. Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng do khả năng
và thời gian hạn chế nên đề tài không tránh khỏi những sai sót. Kính
mong các thầy cô giáo, các cán bộ Sở Tài chính và bạn đọc đóng góp ý
kiến để luận văn được hoàn chỉnh.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của các thầy, cô
giáo trong khoa Tài chính Công. Đặc biệt là sự hướng dẫn khoa học của
TS. Đặng Văn Du và các cán bộ công tác tại Sở Tài chính tỉnh Bắc
Kạn đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sv: Hoµng ThÞ YÕn 2 Líp: K42/01.04
LuËn v¨n tèt nghiÖp Häc viÖn tµi chÝnh
Sv: Hoµng ThÞ YÕn 3 Líp: K42/01.04
LuËn v¨n tèt nghiÖp Häc viÖn tµi chÝnh
CHƯƠNG 1
NGÂN SÁCH XÃ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO
CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN SÁCH XÃ
1.1. Lý luận chung về Ngân sách xã
1.1.1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển Ngân sách xã
* Nước ta, đã có hàng nghìn năm lịch sử tồn tại và phát triển gắn
liền với các triều đại phong kiến và cùng đó là sự hình thành và phát
triển của xã. Thời triều đại nhà Đường thống trị nước ta vào thế kỷ VII
tæng qu¶n Kh©u Hoµ lµ ngêi ®Çu tiªn ®Æt ®Þnh cÊp x·. Đất An Nam ngày
ấy có 12 “châu”, 59 “huyện” và dưới huyện là “hương” và “xã”.
Thế là từ việc đặt định và quản lý làng xã từ thời xa xưa, thực thể
làng xã và văn minh làng xã đã hiện hình: Từ quá trình định cư và cộng
cư của người việt lấy trồng trọt làm nông nghiệp lúa nước là chủ lực,
Nhà nước qua các triều đại từ tự chủ đến đô hộ trải qua các đời trong
đó các vấn đề thu chi - ngân sách - thuế khóa tiền tệ… trong lịch sử là
một trong những đặc trưng quan trọng của làng xã và văn minh làng xã
Với đặc trưng cơ bản riêng có, xã là một khu vực có đặc điểm
riêng biệt về mặt địa lý, lãnh thổ, kết cấu hạ tầng, các hoạt động kinh tế
- xã hội và cộng đồng dân cư. Là một đơn vị hành chính cấp cơ sở xã
cũng có bộ máy đại diện quản lý đảm bảo ổn định chính trị, xã hội.
* Theo nhà sử học Lê Văn Lan, NSX ở Việt Nam có quá trình
phát triển từ rất lâu đời. Bản “hương ước” của làng phú thôn, tổng phú
lão, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định ngày trước ghi: “Nước có thuế
nước, như thuế đinh điền, môn bài để chi công việc công ích trong
Sv: Hoµng ThÞ YÕn 4 Líp: K42/01.04
LuËn v¨n tèt nghiÖp Häc viÖn tµi chÝnh
nước. Dân phải đóng thuế ở dân như thuế: trâu, bò, ngựa, nhà cửa để lo
công việc cho dân”. Ở đây thuật ngữ và khái niệm “Dân” chính là dùng
cho làng xã.
Câu văn cổ này chính là một tuyên ngôn cho sự ra đời và tồn tại
NSX trong xã hội và văn minh làng xã ngày xưa. Với lý do: làng xã là
một đơn vị có tính tự tôn - tự trị - tự quản cao, nên cũng cần phải có
quỹ làng xã, sự ra đời và tồn tại “ngân sách” hiển nhiên là một tất yếu
truyền thống.
Theo luật NSNN (NSNN) năm 2002 và các văn bản hướng dẫn
thực hiện (NĐ số 60/2003/NĐ – CP ngày 06/06/2006 của chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật NSNN; Thông tư số
59/2003/TT – BTC ngày 23/06/2003 của bộ tài chính hướng dẫn thực
hiện nghị định số 60/2003/NĐ – CP) NSX là một bộ phận của NSNN,
là hệ thống các mối quan hệ kinh tế giữa chính quyền Nhà nước cấp xã
với nhân dân phát sinh trong quá trình huy động và sử dụng các nguồn
tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng quản lý, điều
hành nền kinh tế - xã hội trên địa bàn xã. NSX là ngân sách của chính
quyền nhà nước cấp xã, do ủy ban nhân dân xã xây dựng quản lý, điều
hành, được HĐND xã quyết định và giám sát thực hiện. Theo quy định
của nhà nước thì NSX có những đặc điểm chung cơ bản sau:
- Về mặt sở hữu: NSX là một loại quỹ tiền tệ của Nhà nước, do
chính quyền cấp cơ sở quản lý và điều hành. Xã là một cấp ngân sách,
vừa là một đơn vị dự toán đặc biệt bên dưới không có đơn vị dự toán
nào trực thuộc. Ngân sách câp xã có quyền tự chủ nhất định về nguồn
thu và nhiệm vụ chi được quy định trong các văn bản pháp luật về tài
Sv: Hoµng ThÞ YÕn 5 Líp: K42/01.04
LuËn v¨n tèt nghiÖp Häc viÖn tµi chÝnh
chính, tuy nhiên tính độc lập của NSX lại là tương đối do nguồn thu
của xã có hạn và còn phải nhận trợ cấp của ngân sách cấp trên và phụ
thuộc vào ngân sách ngân sách cấp trên. Do vậy NSX được coi là dơn
vị dự toán cuối cùng và đó là một đặc trưng cơ bản của NSX khác so
với các cấp ngân sách khác.
- Về chủ thể: trong các hoạt động thu chi bằng tiền hình thành quỹ
ngân sách được các chủ thể công tiến hành, mà chủ thể công ở đây
chính là chính quyền Nhà nước cấp xã.
- Về mặt pháp luật: quan hệ tài chính phát sinh trong quá trình thu
chi NSX là quan hệ lợi ích giữa hai bên, một bên là lợi ích chung của
cộng đồng cấp cơ sở đại diện là chính quyền xã với một bên là lợi ích
chung của các chủ thể kinh tế khác. Là một đơn vị hành chính cấp cơ sở
đại diện là chính quyền xã vừa chịu trách nhiệm trước dân trong địa
giới hành chính của mình, vừa chịu trách nhiệm trước chính quyền cấp
trên. Do vậy NSX không chỉ có mối quan hệ với các chủ thể công trong
địa giới hành chính xã mà còn quan hệ nhất định với các chủ thể của
chính quyền cấp trên, các quan hệ này luôn chịu sự điều chỉnh bởi các
luật công, dựa trên các quy phạm pháp luật mệnh lệnh, quyền uy.
Như vậy, quá trình hình thành quỹ NSX luôn gắn chặt với bộ máy
chính quyền cấp xã nhằm duy trì sự tồn tại và phát huy hiệu lực của bộ
máy chính quyền xã, thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội mà chính
quyền cấp xã đảm nhận trong từng thời kỳ do HĐND xã giao cho.
* Quá trình phát triển NSX gắn liền với quá trình phát triển của
các hình thái kinh tế - chính trị - xã hội qua từng thời đại..
Sv: Hoµng ThÞ YÕn 6 Líp: K42/01.04
LuËn v¨n tèt nghiÖp Häc viÖn tµi chÝnh
- Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8/1945 đến năm 1971: giai
đoạn này NSX là một bộ phận hợp thành của hệ thống Ngân sách. NSX
góp phần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ miền Bắc,
giải phóng miền Nam trong chiến tranh chống Pháp. NSX đã trở thành
công cụ, phương tiện vật chất có tác dụng to lớn trong sự nghiệp cách
mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Trong thời kỳ này nhà
nước đã ban hành các văn bản quy định nội dung cơ cấu thu, chi NSX
vào những năm 1946, 1952, 1958. Song việc ban hành quy định chưa
gắn liền với cơ chế quản lý và trách nhiệm của xã đối với quản lý khai
thác nguồn thu tại chổ, quản lý chế độ chi NSX, mối quan hệ giữa
UBND xã và hợp tác xã, sự nhất trí lợi ích của xã hội với lợi ích hợp
tác xã còn quy định chung chung, chưa xác định rỏ ràng cụ thể. Bên
cạnh đó việc phân cấp giữa NSX, thị trấn với Ngân sách huyện, Ngân
sách tỉnh cũng chưa được xác định rõ ràng, rành mạch, cụ thể.
- Giai đoạn từ năm 1972 đến 1983: giai đoạn này NSX đã thực sự
quản lý theo luật lệ thống nhất của Nhà nước, góp phần quan trọng
trong sự nghiệp giải phóng miền Nam, xây dựng miền Bắc xã hội chủ
nghĩa.
Tháng 4/1972, với việc Chính phủ ban hành Nghị định 64/CP về
điều lệ NSX, tiếp theo đó Bộ tài chính ban hành thông tư số 14 –
TC/TDT hướng dẫn việc thi hành điều lệ NSX. Nghị định 64/CP đã
quy định cụ thể nội dung của NSX gồm hai phần đó là: Thu và chi
thường xuyên; thu và chi không thường xuyên. Kèm theo đó là nội
dung cụ thể cũng như nguyên tắc quản lý của thu và chi thường xuyên
với thu và chi không thường xuyên. Đồng thời, cũng đã xác định được
Sv: Hoµng ThÞ YÕn 7 Líp: K42/01.04
LuËn v¨n tèt nghiÖp Häc viÖn tµi chÝnh
quyền hạn trách nhiệm của từng cấp trong chính quyền trong việc xây
dựng quản lý NSX.
Đến tháng 5/1978 Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị quyết
108/CP về trách nhiệm quyền hạn quản lý tài chính và Ngân sách của
chính quyền cấp tỉnh và cấp huyện. Nghị quyết đại hội lần thứ IV của
Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định: NSX là một cấp NSNN nhưng
tạm thời chưa tổng hợp thu chi NSX vào Ngân sách huyện. Các khoản
trợ cấp NSX do Ngân sách huyện giải quyết.
- Giai đoạn từ năm 1983 đến 1996:
Cuối năm 1983 Hội đông Bộ trưởng nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam (nay là Chính phủ) đã có quyết định hoàn thiện cơ cấu
hệ thống Ngân sách và phân cấp Ngân sách. Theo Nghị quyết
138/HĐBT ban hành ngày 19/11/1983 về cải tiến chế độ phân cấp quản
lý Ngân sách cho địa phương, NSX lúc này đã là khâu độc lập trong hệ
thống được thống nhất chung với hệ thống NSNN gồm bốn cấp: Trung
ương - Tỉnh - huyện - Xã. Nhưng dự toán và quyết toán NSX vẫn thực
hiện theo mục lục Ngân sách riêng và hạch toán theo chế độ kế toán
NSX.
Trong điều kiện thực hiện đổi mới về kinh tế, phát triển kinh tế
nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, công tác quản lý Ngân sách có
nhiều thay đổi liên quan tới hoạt động thu chi. Trước tình hình đó, Bộ
tài chính đã ban hành tạm thời công văn số 35/TC-NSNN vào tháng
5/1990 hướng dẫn sử dụng kế toán NSX nhằm tăng cường công tác
quản lý NSX. Đây là bước đệm quan trọng trong công tác quản lý Ngân
sách, tạo điều kiện cho các địa phương thoát khỏi sự ràng buộc của cơ
Sv: Hoµng ThÞ YÕn 8 Líp: K42/01.04