Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Một Số Giải Pháp Góp Phần Nâng Cao Chất Lượng Công Tác Quản Lý Thuế Tại Chi Cục Thuế Huyện Ứng Hòa Thành Phố Hà Nội
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế là công cụ hiệu quả để quản lý vĩ mô nền kinh tế phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh
doanh phát triển, giải quyết nhiều vấn đề kinh tế xã hội, để động viên thêm
một phần tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân vào Ngân sách Nhà
nước nhằm đảm bảo nhu cầu chi tiêu chung của Nhà nước và xã hội. Trong
điều kiện hội nhập quốc tế đang diễn ra như ngày nay thì việc hoàn chỉnh hệ
thống thuế là điều rất quan trọng của mọi quốc gia. Điều này không chỉ phụ
thuộc vào những chính sách thuế hợp lý mà còn phụ thuộc rất lớn vào hoạt
động quản lý thuế của Nhà nước. Vì vậy, quản lý thuế đang là vấn đề được xã
hội quan tâm.
Quản lý thuế bao gồm đăng ký, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế, thủ
tục hoàn thuế, miễn giảm thuế, thông tin về người nộp thuế, kiểm tra thuế,
thanh tra thuế, cưỡng chế, xử lý vi phạm pháp luật về thuế, các quy định của
luật thuế về quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế; quyền và trách nhiệm của
cơ quan quản lý thuế, trách nhiệm của Nhà nước.
Mục đích của quản lý thuế nhằm đảm bảo cho cơ quan quản lý thuế
thực hiện tốt trách nhiệm quản lý thuế, người nộp thuế nộp đúng, nộp đủ, bảo
đảm quyền lợi hợp pháp của người nộp thuế.
Trong nền kinh tế càng hiện đại, các mối quan hệ kinh tế càng đa dạng,
phức tạp thì yêu cầu đối với quản lý thuế ngày càng cao. Quản lý thuế phải
được hiện đại hóa toàn diện về phương pháp quản lý, thủ tục hành chính, bộ
máy nhà nước, đội ngũ cán bộ, áp dụng rộng rãi công nghệ thông tin, kỹ thuật
hiện đại, trên cơ sở dữ liệu thông tin về người nộp thuế để kiểm soát tất cả đối
tượng chịu thuế. Hiện nay sự thay đổi cơ chế quản lý theo cơ chế tự khai, tự
nộp là một bước ngoặt thể hiện xu hướng mới trong quản lý thuế tạo sự chủ
2
động và dân chủ hơn cho người nộp thuế. Tuy nhiên, sự đổi mới này không
đảm bảo rằng công tác quản lý thuế có thể đạt được hiệu quả nếu như không
có các biện pháp quản lý thuế đối với đặc điểm của từng đối tượng nộp thuế.
Mục tiêu chất lượng quản lý thuế đạt được khi có sự đổi mới hoàn toàn về
quan điểm, chiến lược và biện pháp quản lý thuế thích hợp đó là coi đối tượng
nộp thuế là khách hàng và cơ quan thuế là người cung cấp dịch vụ tư vấn, hỗ trợ.
Xuất phát từ những lý do trên, em chọn đề tài: "Một số giải pháp góp
phần nâng cao chất lượng công tác quản lý thuế tại Chi cục thuế huyện Ứng
Hòa, TP Hà Nội" làm đề tài luận văn thạc sỹ với hy vọng thông qua đề tài
luận văn này sẽ đóng góp một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
quản lý thuế ở cấp chi cục.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Góp phần nâng cao chất lượng công tác quản lý thuế tại Chi cục thuế
huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa được cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác quản lý thuế.
- Đánh giá được thực trạng công tác quản lý thuế và chất lượng công
tác quản lý thuế tại Chi cục thuế huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội.
- Chỉ ra được các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng công tác quản lý
thuế ở Chi cục thuế huyện Ứng Hòa.
- Đề xuất được các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng quản lý
thuế ở Chi cục thuế huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chất lượng công tác quản lý thuế
của Chi cục thuế huyện Ứng Hòa, Hà Nội.
3
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Phạm vi nội dung: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu đánh giá về nội
dung và quy trình quản lý thuế và tình hình thực hiện quy trình đó ở Chi cục
thuế huyện Ứng Hòa và đề ra một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác
quản lý thuế.
- Phạm vi về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn huyện Ứng Hòa.
- Phạm vi về mặt thời gian: Từ năm 2012- 2014
4. Nội dung nghiên cứu
- Cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác quản lý thuế ở cấp chi cục (các khái
niệm có liên quan, công tác quản lý thuế, các bài học kinh nghiệm về quản lý thuế
ở một số quốc gia trên thế giới và Việt Nam, các nghiên cứu liên quan).
- Thực trạng công tác quản lý thuế và chất lượng công tác quản lý thuế
tại chi cục thuế Huyện Ứng Hòa, TP.Hà Nội.
- Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng công tác quản lý thuế tại Chi
cục thuế huyện Ứng Hòa
- Giải pháp góp phần nâng cao chất lượng công tác quản lý thuế tại chi
cục thuế Huyện Ứng Hòa, TP.Hà Nội.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác quản lý thuế
Chương 2: Đặc điểm địa bàn nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu
4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC TIỄN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ
1.1. Một số lý luận cơ bản về thuế
1.1.1. Khái niệm Thuế
Trên thực tế thuế đã tồn tại từ khi các Nhà nước hình thành, song các lý
luận về kinh tế của thế giới, cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất tuyệt đối
khái niệm về thuế. Nhìn chung các quan điểm của các nhà kinh tế đưa ra mới
nhìn nhận từ những khía cạnh khác nhau của thuế, do đó chưa phản ánh đầy
đủ bản chất chung của phạm trù này.
Chẳng hạn, theo các nhà kinh điển thì thuế được quan niệm rất đơn
giản: "Để đạt được quyền lực công cộng đó, cần phải có những đóng góp của
những người công dân của nhà nước, đó là thuế".
C.Mác (1961) đã viết "Thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy nhà nước"
(Mác - Ăng ghen tuyển tập, NXB sự thật, Hà nội,); Ăng Ghen (1962) cũng đã
viết "để duy trì quyền lực công cộng, cần phải có sự đóng góp của công dân
cho nhà nước, đó là thuế".
Theo Benjamin Franklin(1776), một trong những tác giả của bản tuyên
ngôn độc lập nổi tiếng của nước Mỹ đã đưa ra một lời tuyên bố bất hủ trong
lịch sử thuế khóa: "Trong cuộc sống không có gì là tất yếu, ngoài cái chết và
thuế".
Sau này khái niệm về thuế ngày càng được bổ sung và hoàn thiện hơn.
Trong cuốn từ điển của hai tác giả người Anh là Chrisopher Pass và Bryan
Lowes (1991) cho rằng: "Thuế là một biện pháp của Chính phủ đánh trên thu
nhập của cải và vốn nhận được của các cá nhân hay doanh nghiệp (thuế trực
thu), trên việc chi tiêu về hàng hóa và dịch vụ (thuế gián thu) và trên tài sản.
Một định nghĩa về thuế tương đối hoàn chỉnh được nêu trong cuốn
"Economics" của hai nhà kinh tế Mỹ K.P.Makkohhell và C.L.Bryu (1993)
5
như sau: "Thuế là một khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền (hoặc là chuyển
giao bằng hàng hóa, dịch vụ) của các công ty và các hộ gia đình cho Chính
phủ, mà trong sự trao đổi đó họ không nhận được một cách trực tiếp hàng hóa
hoặc dịch vụ nào cả, khoản nộp đó không phải là tiền phạt mà toàn án tuyên
phạt do hành vi vi phạm pháp luật".
Gần đây trong một số công trình nghiên cứu về thuế các nhà kinh tế
cho rằng, để vạch rõ bản chất của thuế thì trong định nghĩa đó phải nêu bật
các khía cạnh sau đây: nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các quan
hệ tiền tệ giữa Nhà nước với các pháp nhân và các thể nhân; những mối quan
hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách khách quan và có ý nghĩa xã
hội đặc biệt việc chuyển giao thu nhập có tích chất bắt buộc theo mệnh lệnh
của Nhà nước được pháp luật quy định theo mức thu và thời hạn nhất định.
Từ việc phân tích những quan niệm về thuế của thế giới và của nước ta
nêu trên, có thể nhận thức chung về thuế như sau:
Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có
nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản
pháp luật do Nhà nước ban hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả
trực tiếp cho đối tượng nộp thuế. Thuế không phải là một hiện tượng tự nhiên
mà là một hiện tượng xã hội do chính con người định ra và nó gắn liền với
phạm trù Nhà nước và pháp luật.
Trong thực tế, ở nước ta hiện nay khi hình thành quỹ tiền tệ tập trung,
Nhà nước thực hiện các chức năng của mình trong đó có chức năng quản lý
và xây dựng kinh tế thông qua việc kiến thiết, xây dựng, phát triển cơ sở hạ
tầng và các công trình phúc lợi xã hội khác thì người nộp thuế thông qua đó
được hưởng một phần kết quả nộp thuế của mình.
1.1.2. Chức năng Thuế
Chức năng của một sự vật hay một hiện tượng là sự thể hiện công dụng
6
vốn có của nó. Đối với một phạm trù kinh tế xã hội thì chức năng phản ánh sự
tác động của nó là một phương thức đặc biệt biểu hiện những thuộc tính vốn
có của phạm trù. Cũng như bản chất, chức năng cũng có tính ổn định tương
đối của nó trong suốt thời gian tồn tại của sự vật hay đối tượng.
Thuế là phạm trù tài chính, nó biểu hiện những thuộc tính chung vốn có
của các quan hệ tài chính. Tuy nhiên thuế cũng có những đặc trưng, hình thức
vận động và các chức năng bắt nguồn từ tổng thể các quan hệ tài chính. Căn
cứ vào nội dung cùng với quá trình ra đời, tồn tại và phát triển của thuế cho
thấy rằng thuế thực hiện các chức năng sau:
* Chức năng phân phối và phân phối lại của thuế là loại chức năng
cơ bản đặc thù nhất mà tất cả các nước đều phải dựa vào đó. Thông qua chức
năng này các quỹ tiền của Nhà nước được hình thành. Đây chính là sức mạnh
cơ sở vật chất bảo đảm cho sự hoạt động thường xuyên và tồn tại của Nhà
nước. Khi bàn đến chức năng tài chính của Thuế, một số người thường đơn
giản rằng: Thuế là phương tiện tạo nguồn thu nhập - theo nghĩa thông thường
trưng thu tiền - đối với Nhà nước. Điều đó không hoàn toàn chính xác, bởi vì
Nhà nước có thể có tiền bằng nhiều cách khác nhau: yêu cầu ngân hàng trung
ương mở rộng tín dụng, phát hành thêm tiền... Nhưng việc sử dụng những
phương cách này đương nhiên phải được Nhà nước cân nhắc vì chúng chứa
đựng những mầm mống của nguy cơ lạm phát. Bởi vậy, ngoài việc phát hành
tín dụng để đảm bảo nhu cầu chi tiêu, Nhà nước có thể sử dụng Thuế một
cách thường xuyên và lâu dài. Mục tiêu thực sự của chính sách thuế theo nhà
kinh tế là "rút bớt sức mua khỏi những người đóng thuế, để những người đóng
thuế từ bỏ sự kiểm soát đối với tài nguyên kinh tế và làm cho tài nguyên này
thành khả dụng đối với Nhà nước".
* Chức năng phân phối và phân phối lại của thuế được Nhà nước vận
dụng dẫn đến kết quả là diễn ra quá trình "nhà nước hóa" một bộ phận GDP
7
dưới hình thức tiền tệ; tạo điều kiện khách quan vô cùng cần thiết cho sự can
thiệp của Nhà nước vào các hoạt động kinh tế. Do đó, chính chức năng phân
phối và phân phối lại, trong một chừng mực đáng kể, đã tạo ra điều kiện cho
sự ra đời và phát huy tác dụng chức năng điều tiết kinh tế của Thuế.
* Chức năng điều tiết đối với nền kinh tế: Chức năng điều tiết của
thuế được nhận thức và sử dụng rộng rãi từ những năm đầu của thế kỷ XX và
gắn liền với vai trò điều chỉnh của Nhà nước đối với nền kinh tế. Việc tăng
cường vai trò kinh tế- xã hội của Nhà nước dẫn đến tốc độ chi tiêu Nhà nước
ngày càng tăng lên và hậu quả tất yếu là đòi hỏi Nhà nước phải mở rộng quỹ
tài chính Nhà nước, hình thành chủ yếu từ việc thu thuế. Nhu cầu về nguồn tài
chính càng lớn thì Nhà nước cần phải tăng cường các chức năng của thuế để
tác động một cách có hiệu quả đến nền kinh tế quốc dân. Chính trong quá
trình đó chức năng phân phối và phân phối lại và chức năng điều chỉnh của
thuế đã được sử dụng một cách hiện thực.
Điều đó có nghĩa là nội dung điều tiết theo một mục tiêu nào đó đã
được dự liệu trước và trong quá trình huy động tập trung nguồn tài chính.
Bằng cách sử dụng nó để kích thích hoặc kìm hãm tốc độ tăng trưởng, tăng
cường hoặc làm yếu đi sự tích lũy tiết kiệm, mở rộng hoặc thu hẹp nhu cầu có
khả năng thanh toán của dân cư, đẩy nhanh hoặc làm chậm lại chu kỳ khủng
hoảng kinh tế, Nhà nước đã thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế- xã hội
trong phạm vi quốc gia.
Thực hiện chức năng điều chỉnh của thuế thông qua việc quy định các
hình thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và đối
tượng nộp thuế; xây dựng chính xác, hợp lý các mức thuế phải nộp có tính
đến khả năng của người nộp thuế. Trên cơ sở đó, Nhà nước kích thích các
hoạt động kinh tế đi vào quỹ đạo chung của nền kinh tế quốc dân, phù hợp với
lợi ích của toàn xã hội. Trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường, vai trò
8
kích thích kinh tế thông qua thuế ngày được nâng cao. Nhà nước sử dụng thuế
để tác động lên lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế vì lợi ích của nền kinh
tế quốc dân. Với công cụ thuế, sự can thiệp của Nhà nước không mang tính
chất mệnh lệnh, bắt buộc của chủ thể phải kinh doanh hay không kinh
doanh mà chủ yếu tạo sự lựa chọn đối với các chủ thể kinh doanh.
Giữa hai chức năng trên của thuế có mối quan hệ gắn bó mật thiết
với nhau. Chức năng phân phối và phận phối lại của thuế là nguyên nhân
ảnh hưởng đến sự vận động và phát triển của chức năng điều tiết. Nhưng
chức năng điều tiết của thuế cũng có tác động ngược lại đến chức năng
phân phối và phân phối lại thu nhập. Nguồn tài chính mà Nhà nước tập
trung được dưới dạng thuế là tiền đề của sự can thiệp của Nhà nước trên
diện rộng và theo chiều sâu tới quá trình sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp. Ngược lại, việc điều tiết, sắp xếp sản xuất của Nhà nước
nhằm vào việc thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế lại tạo điều kiện
để tăng thu nhập của các tầng lớp nhân dân và đây chính là cơ sở quan
trọng để mở rộng phạm vi tác động của chức năng phân phối và phân phối
lại.
Sự thống nhất nội tại của các chức năng hoàn toàn không loại trừ
các mâu thuẫn nội tại trong mỗi chức năng và giữa hai chức năng. Sự tăng
cường chức năng phân phối và phân phối lại làm cho nguồn thu của Nhà
nước tăng lên. Điều đó có nghĩa là mở rộng khả năng của Nhà nước trong
việc thực hiện các chương trình kinh tế xã hội. Mặt khác, việc tăng cường
chức năng phân phối và phận phối lại một cách quá mức làm tăng gánh
nặng thuế và hậu quả là làm giảm động lực phát triển kinh tế, trong nhiều
trường hợp làm hạn chế vai trò của chức năng điều tiết. Đó là tính hai mặt
của thuế, nó có khả năng làm ảnh hưởng đến nền kinh tế một cách tích cực
nhưng cũng có thể ảnh hưởng một cách tiêu cực. Tính hai mặt của sự tác
9
động đó cũng cần phải được xem xét nghiêm túc kỹ lưỡng trong tiến trình
hoạch định, xây dựng, ban hành của chính sách pháp luật về thuế của Nhà
nước trong từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội nhất định.
1.1.3. Phân loại Thuế
Để định hướng xây dựng và quản lý hệ thống thuế, chúng ta tiến hành
sắp xếp các luật thuế có cùng tính chất thành những nhóm khác nhau gọi là
phân loại thuế.
Phân loại thuế là việc sắp xếp các sắc thuế trong một hệ thống thành
những nhóm khác nhau theo những tiêu thức nhất định. Phân loại thuế có ý
nghĩa quan trọng trong quản lý thu thuế từ khâu xây dựng chính sách đến triển
khai thực hiện và vận dụng đúng đắn trong quá trình hoạch định chính sách
thuế. Có thể phân loại thuế theo các tiêu thức sau:
* Phân loại theo phương thức đánh thuế: Thuế được phân thành 2
loại thuế trực thu và thuế gián thu.
- Thuế gián thu là loại thuế mà Nhà nước sử dụng nhằm động viên một
phần thu nhập của người tiêu dùng hàng hóa, sử dụng dịch vụ thông qua việc
thu thuế đối với người sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tính chất gián
thu thể hiện ở chỗ người nộp thuế và người chịu thuế không đồng nhất với
nhau. Thuế gián thu là bộ phận cấu thành trong giá cả hàng hóa, dịch vụ do
chủ thể hoạt động sản xuất, kinh doanh nộp cho Nhà nước nhưng người tiêu
dùng lại là người phải chịu thuế.
Thuế thuộc loại thuế này bao gồm: thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt...
- Thuế trực thu là loại thuế mà Nhà nước thu trực tiếp vào phần thu
nhập của các pháp nhân hoặc thể nhân. Tính chất trực thu thể hiện ở chỗ
người nộp thuế theo quy định của pháp luật đồng thời là người chịu thuế.
Thuế trực thu trực tiếp động viên, điều tiết thu nhập của người chịu thuế.
10
Thuế thuộc loại thuế này bao gồm: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập
cá nhân, thuế nhà đất...
Sự phân loại thuế thành thuế trực thu và thuế gián thu có ý nghĩa quan
trọng trong việc xây dựng chính sách pháp luật thuế.
* Phân loại theo đối tượng chịu thuế: Nếu căn cứ vào đối tượng chịu
thuế có thể chia thuế thành 3 loại:
- Thuế thu nhập: bao gồm các sắc thuế có đối tượng chịu thuế là thu
nhập nhận được. Thu nhập có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau:
thu nhập từ lao động dưới dạng tiền lương, tiền công, thu nhập từ hoạt động
sản xuất kinh doanh dưới dạng lợi nhuận, lợi tức, cổ phần... Do vậy, thuế thu
nhập cũng có nhiều hình thức khác nhau: thuế thu nhập cá nhân, thuế thu
nhập doanh nghiệp...
- Thuế tiêu dùng: là các loại thuế có đối tượng chịu thuế là giá trị hàng
hóa, dịch vụ tiêu dùng trong hiện đại. Trong thực tế, loại thuế tiêu dùng được
thể hiện dưới nhiều dạng như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng...
- Thuế tài sản: là các loại thuế có đối tượng chịu thuế là giá trị tài sản.
Tài sản có nhiều hình thức biểu hiện: tài sản tài chính gồm có tiền mặt,tiền
gửi, chứng khoán..., tài sản cố định gồm nhà cửa, đất đai, máy móc, xe cộ....,
tài sản vô hình như nhãn hiệu, kỹ thuật và lợi thế thương mại... nói chung thuế
tài sản thường trên giá trị của tài sản cố định gọi là thuế bất động sản, đánh
trên tài chính gọi là thuế động sản.
* Phân loại theo mối tương quan với thu nhập: Theo cách phân loại
này, hệ thống thuế gồm ba loại: thuế lũy tiến, thuế lũy thoái và thuế tỷ lệ.
- Thuế lũy tiến: là sắc thuế có tỷ lệ ngày càng tăng theo thu nhập chịu thuế.
- Thuế lũy thoái: là sắc thuế mà tỷ lệ thu giảm dần khi thu nhập chịu
thuếtăng lên.
- Thuế tỷ lệ: là sắc thuế mà thuế suất không thay đổi.
11
1.1.4. Các nguyên tắc xây dựng hệ thống Thuế
Hệ thống thuế một quốc gia bao gồm nhiều sắc thuế và được xây dựng
theo các nguyên tắc sau đây:
* Nguyên tắc minh bạch: Về mặt xã hội, nguyên tắc minh bạch đòi hỏi
các quy định về thuế phải rõ ràng và mang tính đại chúng nhằm ngăn ngừa
hiện tượng lạm thu đối với người nộp thuế, ngăn ngừa hiện tượng tham ô biển
thủ thuế của nhân viên thuế, đồng thời cho thấy thái độ tôn trọng người nộp
thuế của Chính phủ. Trong kinh doanh, thuế là một khoản chi phí (nghĩa vụ)
nhưng đồng thời cũng có thể là một khoản ưu đãi (quyền lợi) do đó, sự rõ
ràng của Thuế giúp các chủ thể kinh doanh hoạch định chính xác mọi chi phí
về thuế và đánh giá đầy đủ ưu đãi thuế. Từ đó, họ yên tâm kinh doanh và
mạnh dạn bỏ vốn đầu tư lâu dài.
* Nguyên tắc hiệu quả: Nguyên tắc này đòi hỏi việc xây dựng mỗi sắc
thuế và hệ thống thuế phải chú trọng đến hiệu quả kinh tế xã hội. Một hệ
thống thuế gọi là hiệu quả khi được phát huy tối đa mọi tác dụng.
Thuế là công cụ thuộc chính sách tài chính vĩ mô chứa đựng nhiều mục
tiêu như tạo số thu cho NSNN; tăng cường quản lý hoạt động kinh tế xã hội,
điều chỉnh các hoạt động kinh tế vĩ mô theo hướng thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế toàn diện; tạo hành lang cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp;
khuyến khích đầu tư và tiết kiệm bên trong nền kinh tế; điều tiết hợp lý thu
nhập của doanh nghiệp và mọi tầng lớp dân cư. Tính đa mục tiêu bởi như thế
sẽ cồng kềnh và kém hiệu quả, mà cần phải chuyên biệt hóa mục tiêu cho
từng sắc thuế.
Trên phương diện toàn bộ nền kinh tế, phải tính vào chi phí thu thuế
những chi phí mà xã hội mất đi cho một đồng thuế thu vào NSNN. Đó là chi
phí về thời gian và công sức mà đối tượng nộp thuế phải bỏ ra để nghiên cứu
thực thi thuế, là chi phí sắp xếp quá trình kinh doanh phù hợp với những quy
12
định thuế mới.
Nguyên tắc hiệu quả yêu cầu đối xử thuế như một công cụ kinh tế
nhằm tăng cường vai trò của thuế đối với các hoạt động kinh tế xã hội.
* Nguyên tắc linh hoạt: Nguyên tắc linh hoạt đòi hỏi thuế gắn chặt
hoạt động kinh tế, phản ánh thực sự những thăng trầm kinh tế và những biến
động chính trị, xã hội. Tính linh hoạt thể hiện qua độ nổi và độ co giãn của thuế.
* Nguyên tắc công bằng: Trên phương diện kinh tế, nguyên tắc công
bằng đòi hỏi thuế tái phân phối thu nhập xã hội theo khả năng tài chính của
người chịu thuế. Về mặt xã hội, đòi hỏi thuế không được phân biệt đối xử đối
tượng nộp thuế, thuế phải góp phần tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa
các doanh nghiệp. Nguyên tắc thuế công bằng có liên quan đến nguyên tắc
thuế trung lập.
Nguyên tắc thuế trung lập đòi hỏi Nhà nước không được nhân cơ hội
đánh thuế để làm thay đổi tương quan thu nhập giữa các doanh nghiệp hoặc
tình trạng kinh tế của mỗi công dân. Thuế chỉ nên làm số thu nhập thường
xuyên của tư nhân giảm xuống, rồi đến khi chỉ tiêu, Nhà nước hoàn trả lại cho
cá nhân bằng lợi ích của các dịch vụ do Chính phủ cung cấp.
Việc động viên bao nhiêu phần trăm tổng sản phẩm trong nước (GDP)
qua thuế cũng là một vấn đề thuộc lĩnh vực công bằng. Nếu Nhà nước thu
thuế vượt mức quá khả năng chịu thuế của doanh nghiệp và dân cư (tỷ lệ tối
đa từ thu nhập doanh nghiệp và người dân sẵn sàng trích ra để trả thuế mà
không làm thay đổi hoạt động vốn có của nó) thì không những chi phí để thu
một đồng thuế sẽ vượt quá lợi ích do một đồng thuế mang lại mà còn gây
căng thẳng trong phân chia thu nhập giữa khu vực tư và khu vực công. Điều
này chắc chắn ảnh hưởng đáng kể đến kết quả kinh doanh trên phạm vi cả
nước.
13
1.2. Công tác quản lý thuế
1.2.1. Khái niệm về quản lý thuế
Quản lý thuế là một lĩnh vực quản lý chuyên ngành. Vì vậy, để tiếp cận
khái niệm quản lý thuế, trước hết, cần tiếp cận khái niệm quản lý.
Quản lý là một phạm trù để chỉ những mối quan hệ và sự tác động qua
lại giữa các chủ thể quản lý và đối tượng bị quản lý nhằm đạt được những
mục tiêu đề ra trong điều kiện có sự biến đổi của môi trường. Tùy theo yêu
cầu, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu mà ta có thể hiểu chủ thể quản lý và đối
tượng bị quản lý ở chừng mực nhất định.
Khái niệm quản lý thuế có phần hẹp hơn, chủ thể quản lý là Nhà nước
mà cụ thể là cơ quan thuế các cấp. Đối tượng quản lý là các doanh nghiệp các
và cá nhân liên quan có nghĩa vụ về thuế. Các cơ quan thuế có tác động lên
đối tượng nộp thuế bằng phương thức, phương tiện của mình nhằm đạt được
mục đích nhất định. Quản lý thuế nhằm những hoạt động có tổ chức trong bộ
máy nhà nước thuộc lĩnh vực hành pháp và tư pháp về thuế của cơ quan thuế
các cấp với các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do luật định nhằm thực hiện
chính sách thuế đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thông qua. Hay nói
cách khác, quản lý thuế là hoạt động tổ chức, điều hành và giám sát của cơ
quan thuế nhằm đảm bảo người nộp thuế chấp hành nghĩa vụ nộp thuế vào
NSNN theo quy định của pháp luật.
Như vậy, quản lý thuế là khâu tổ chức, phân công trách nhiệm cho các
bộ phận trong cơ quan thuế, xác lập mối quan hệ phối hợp giữa các bộ phận
một cách hữu hiệu trong việc thực thi các chính sách thuế để ngày một nâng
cao chất lượng cũng như hiệu quả thu ngân sách nhà nước góp phần khuyến
khích sản xuất kinh doanh phát triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao ý
thức tự giác nộp thuế cho đối tượng nộp thuế và phải coi đó như là bộ phận và
trách nhiệm của đối tượng nộp thuế.