Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Một số giải pháp đấy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế VKTTĐPN trong thời kỳ hội nhập WTO
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
MỤC LỤC
2.6.2.1. Phân tích SWOT.......................................................................................67
MỞ ĐẦU
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (VKTTĐPN, sau đây gọi tắt là Vùng),
theo quyết định phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ số 44/1998/QĐ-TTg, ngày
23/2/1998 bao gồm TP.HCM và các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa – Vũng
Tàu. Trong Hội nghị các tỉnh VKTTĐPN ngày 20-21/6/2003, Thủ tướng Chính phủ
đã quyết định mở rộng ranh giới VKTTĐPN, sau đó Văn phòng Chính phủ đã ra
thông báo số 99/TB-VPCP này 2/7/2003 về kết luận của Thủ tướng Chính phủ,
trong đó quyết định bổ sung vào VKTTĐPN thêm 3 tỉnh: Tây Ninh, Bình Phước,
Long An. Năm 2005, VKTTĐPN được mở rộng tới Tiền Giang (tại Thông báo số
4973/VPCP-ĐP ngày 03/9/2005). Đến nay VKTTĐPN bao gồm 8 tỉnh, thành phố:
Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa –
Vũng Tàu, Long An, Tiền Giang với diện tích gần 30 nghìn km2
, dân số năm 2005
có khoảng 14,7 triệu người, chiếm 9,2% diện tích tự nhiên và khoảng 17,7% dân số
so với cả nước. Tỷ lệ đô thị hóa của vùng đạt 48%, bằng 1,8 lần trung bình cả nước.
VKTTĐPN có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội của cả nước; là vùng duy nhất hiện nay hội đủ các điều kiện và lợi
thế để phát triển công nghiệp, dịch vụ, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa; đặc biệt phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp điện tử, tin học,
công nghiệp dầu khí và sản phẩm hóa dầu; phát triển dịch vụ cao cấp, dịch vụ du
lịch, dịch vụ viễn thông, tài chính, ngân hàng; nghiên cứu, ứng dụng và triển khai
khoa học và công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao…Bộ Chính trị đã có
Nghị quyết số 53/NQ-TW ngày 29/8/2005 và Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết
định số 146/QĐ-TTg ngày 13/8/2004 đối với VKTTĐPN. Để góp phần thực hiện
mục tiêu chung của cả nước về tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng của VKTTĐPN giai
đoạn 2005-2010 gấp 1,2 lần, giai đoạn 2011-2020 gấp 1,1 lần mức bình quân của cả
nước. Tỷ trọng đóng góp trong GDP cả nước tăng từ 36% năm 2005 lên khoảng 40-
41% năm 2010 và 43-44% năm 2020; tăng mức đóng góp của Vùng trong thu ngân
sách của cả nước từ 33,9% năm 2005 lên 38,7% năm 2010 và 40,5% năm 2020.
GDP của vùng năm 2005 khoảng 328 nghìn tỷ đồng, chiến 1/3 GDP cả nước;
GDP bình quân đầu người đạt khoảng 20-22 triệu đồng, cao gấp 2,4 lần so với trung
bình cả nước. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2001-2005 của vùng đạt
8,3%, cao hơn gấp 1,15 lần so với mức trung bình của cả nước. Kim ngạch xuất
khẩu của toàn Vùng tăng bình quân 21,4%. Năm 2005, giá trị xuất khẩu ước đạt xấp
xỉ 3 tỷ USD, chiếm 3,19% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, kim ngạch xuất khẩu
bình quân đầu người đạt 214 USD. Các ngành công nghiệp, du lịch, dịch vụ, kết cấu
hạ tầng, và các lĩnh vực khác có những thay đổi đáng kể. Trong điều kiện kinh tế và
công nghiệp phát triển nhanh, cơ cấu ngành kinh tế trong VKTTĐPN đã có sự
chuyển biến nhất định theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm
tương đối tỷ trọng nông nghiệp.
3
Mấy năm gần đây, khu vực dịch vụ sau một thời gian tăng nhanh đã chững
lại và tăng chậm hơn nhịp độ tăng trưởng chung của GDP, làm giảm khả năng lan
tỏa tác động tích cực của VKTTĐPN. Tốc độ tăng bình quân khu vực dịch vụ 1997
– 2002 của vùng đạt 7,69% (trong khi tốc độ tăng GDP là 10,74%).
Tỷ trọng khu vực dịch vụ của VKTTĐPN có xu hướng giảm là điều rất đáng
quan tâm. Qua số liệu tính toán cho thấy tỷ lệ dịch vụ của VKTTĐPN giảm từ
44,4% (1996) xuống 36,07% (2002), trong đó ở TP.HCM tỷ lệ này giảm từ 57,0%
xuống 51,65%, tỉnh Ðồng Nai từ 27,75% giảm xuống 25,4%, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu
giảm từ 19,11% xuống 10,56% và tỉnh Bình Dương giảm từ 28,35% xuống 26,0%.
Sự giảm sút tỷ trọng khu vực dịch vụ trong cơ cấu GDP do sự tăng trưởng các
ngành dịch vụ không tương ứng với tốc độ tăng trưởng công nghiệp, là dấu hiệu bất
hợp lý trong cơ cấu kinh tế VKTTĐPN. Nếu xu thế này không được điều chỉnh kịp
thời trên cơ sở các chính sách ưu tiên đầu tư thúc đẩy phát triển mạnh thương mại,
dịch vụ, du lịch, dịch vụ tài chính ngân hàng, dịch vụ vận tải, bưu điện... thì các yếu
tố bất lợi cho phát triển kinh tế của vùng sẽ nảy sinh tiếp tục làm giảm tốc độ tăng
trưởng công nghiệp nói riêng và kinh tế nói chung của vùng. Bên cạnh đó, kể từ đầu
năm 2007, nền kinh tế nước ta chính thức trở thành một nền kinh tế thành viên của
Tổ Chức Thương mại Thế giới (WTO). Điều này đem đến những cơ hội và thách
thức đan xen nhau đối với cơ cấu kinh tế Vùng và việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Vùng. Cụ thể, hội nhập WTO có thể tác động đến chuyển dịch cơ cấu trên các nội
dung sau:
- Việt Nam có cơ hội tham gia ngày càng sâu hơn và rộng hơn vào phân công
lao động và hợp tác kinh tế quốc tế trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh. Điều này sẽ
ảnh hưởng sâu sắc đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Hội nhập WTO tạo áp lực thúc đẩy cải cách kinh tế trong nước, đáng chú ý
là cải cách về thể chế kinh tế cho phù hợp với luật chơi quốc tế và trình độ phát
triển của nền kinh tế, cải cách về cơ chế quản lý kinh tế cho phù hợp với cơ cấu
kinh tế đang chịu áp lực thay đổi dưới tác động của hội nhập WTO.
- Hội nhập WTO tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam thu hút vốn đầu tư trực
tiếp của nước ngoài, tiếp thu công nghệ và kinh nghiệm quản lý. Những điều này có
tác động mạnh đến cơ cấu nguồn lực đầu vào của quá trình tăng trưởng và phát triển
kinh tế.
Vì thế, có thể thấy rằng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời kỳ hội nhập
WTO càng trở nên vô cùng quan trọng và mang tính thời sự trong quá trình phát
triển kinh tế Vùng hướng đến mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế nhanh, hiệu
quả và bền vững.
Với ý nghĩa đó, đề tài “Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam trong thời kỳ hội nhập WTO” trở nên cấp thiết hơn bao giờ
hết.
Mục tiêu chung của đề tài là xây dựng những luận cứ khoa học, căn cứ thực
tiễn của chuyển dịch cơ cấu kinh tế của VKTTĐPN trong tăng trưởng và phát triển
kinh tế, về ảnh hưởng của WTO đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Vùng, và
4
về những vấn đề mấu chốt đặt ra cần giải quyết trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Vùng. Trên cơ sở đó, đề tài đề xuất hệ thống quan điểm, định hướng và giải pháp
giải quyết các vấn đề nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế Vùng trong thời
kỳ hội nhập WTO.
Để đạt được mục tiêu chung, đề tài tập trung thực hiện các nhiệm vụ nghiên
cứu cụ thể sau:
- Hệ thống lý luận về cơ cấu kinh tế, kinh tế vùng lãnh thổ và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trong tăng trưởng và phát triển kinh tế; lý luận về ảnh hưởng của
WTO đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Phân tích cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu, cũng như ảnh hưởng của nó
đến tăng trưởng và phát triển kinh tế VKTTĐPN trong thời gian gần đây, đặc
biệt là hai năm 2007 và 2008.
- Xác định các vấn đề mấu chốt đang đặt ra trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Vùng dưới ảnh hưởng của hội nhập WTO.
- Xác định quan điểm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam trong thời kỳ hội nhập WTO.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Vùng trong thời kỳ hội nhập WTO.
Để đạt các mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đã xác định, đề tài tập trung các
nội dung nghiên cứu sau:
Nội dung thứ nhất: Nội dung lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng
trong tăng trưởng và phát triển kinh tế; lý luận về tác động của hội nhập WTO đến
chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng.
Nội dung thứ hai: Tình hình cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
VKTTĐPN trong những năm gần đây, đặc biệt trong hai năm 2007 và 2008 khi Việt
Nam đã gia nhập WTO.
Nội dung thứ ba: Đánh giá ảnh hưởng có thể có của hội nhập WTO lên cơ
cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế VKTTĐPN và các vấn đề mấu chốt đang
đặt ra trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế VKTTĐPN dưới ảnh hưởng của hội nhập
WTO.
Nội dung thứ tư: Xây dựng quan điểm, đề xuất phương hướng, giải pháp đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế Vùng trong thời kỳ hội nhập WTO.
Để đạt mục tiêu nghiên cứu đặt ra, đề tài xây dựng khung phân tích vấn đề
và sử dụng các phương pháp nghiên cứu tương ứng đối với các vấn đề cụ thể.
Khung phân tích vấn đề
Đề tài sử dụng cách tiếp cận hệ thống, triển khai theo nguyên tắc từ hệ thống
chung đến các bộ phận. Trước hết, đề tài phân tích quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế dưới tác động của hội nhập
WTO. Kế đến, đề tài phân tích mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu các đầu vào
5
với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cũng như mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ
cấu nội bộ ngành với tăng trưởng kinh tế dưới tác động của hội nhập WTO. Cụ thể
trong Hình 1 dưới đây:
Hình 1: Khung phân tích của đề tài
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích thống kê, phương
pháp chuyên gia, và phương pháp phỏng vấn sâu. Trong đó, phương pháp nghiên
cứu chủ yếu là phân tích thống kê và phương pháp chuyên gia.
a. Phân tích thống kê: Sử dụng các số liệu thống kê để so sánh
tìm ra các kết luận khoa học.
6
b. Phương pháp chuyên gia: Tổ chức hội thảo trong quá trình thực
hiện nhằm tìm kiếm sự thống nhất trong các phân tích, đánh giá cũng như đề xuất
các giải pháp, kiến nghị. Chuyên gia là các cán bộ chỉ đạo thực tiễn của tỉnh và một
số nhà nghiên cứu trong và ngoài tỉnh.
c. Phương pháp phỏng vấn sâu: Tiến hành một số cuộc phỏng vấn
sâu một số cán bộ chủ chốt của các tỉnh trong Vùng.
d. Phương pháp nghiên cứu chọn điểm kết hợp nghiên cứu theo
diện rộng: Thực hiện các nghiên cứu theo một số địa phương trọng điểm với các nội
dung có liên quan song song với nghiên cứu Vùng trong một thể thống nhất. Cụ thể:
Nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu công nghiệp và dịch vụ của Thành phố Hồ Chí
Minh, công nghiệp của Đồng Nai, Bình Dương, nông nghiệp của Tiền Giang, Tây
Ninh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung của Thành phố Hồ Chí Minh trong hội nhập
WTO.
Kết cấu của báo cáo tổng kết
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục bảng,
các nội dung nghiên cứu của đề tài được kết cấu thành 03 chương:
Chương 1: Lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng trong thời kỳ hội nhập
WTO
Chương 2: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Vùng trong quá trình tăng trưởng và
phát triển kinh tế của VKTTĐPN dưới tác động của hội nhập WTO
Chương 3: Quan điểm, phương hướng, giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ
cấu kinh tế VKTTĐPN trong thời kỳ hội nhập WTO
7
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH
TẾ VÙNG TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP WTO
1.1. Lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng
1.1.1. Lý luận chung về kinh tế vùng và phân vùng kinh tế ở Việt Nam hiện nay
Vùng là khái niệm được sử dụng khá phổ biến trong quá trình phát triển kinh
tế - xã hội ở các quốc gia. Xét về mặt địa lý, Vùng là một phần của bề mặt trái đất,
có những đặc trưng riêng về thỗ nhưỡng, khí hậu, kinh tế, xã hội, lợi thế phát triển,
… Xét về mặt quản lý, Vùng được xem là cấp trung gian giữa quốc gia và tỉnh,
vùng bao gồm một số tỉnh và mỗi một quốc gia có một số vùng (trong một số
trường hợp nhất định người ta thường dùng Miền như miền Bắc, miền trung, miền
Nam). Tùy vào mục đích nghiên cứu khác nhau, các nhà khoa học quan niệm khác
nhau về Vùng. Tuy nhiên, xét trên tổng thể, Vùng có những đặc trưng cơ bản sau:
- Vùng được xác định bởi không gian nhất định, đó là không gian về tự
nhiên, không gian về kinh tế, không gian về xã hội, không gian về văn hóa,…
- Các yếu tố cấu thành nên vùng có sự đồng nhất tương đối với nhau (không
hoàn toàn giống nhau), có sự khác biệt tương đối, chính sự khác biệt này hình thành
nên lợi thế, bổ trợ lẫn nhau của các địa phương trong vùng trong quá trình phát
triển.
- Có hình thức kết cấu hệ thống nhất định, tính phân cấp, phân tầng, từ đó
hình thành các mối liên kết theo chiều dọc, chiều ngang. Trong vùng có các tiểu
vùng là các bộ phận hợp thành vùng lớn hơn.
Vùng kinh tế là một bộ phận hợp thành hệ thống nền kinh tế quốc dân, với
những đặc trưng như: chuyên môn hóa những chức năng kinh tế quốc dân cơ bản;
tính tổng hợp trong phát huy lợi thế phát triển của các địa phương thông qua các
mối quan hệ liên kết; tính thống nhất, vùng kinh tế được coi như một hệ thống toàn
vẹn, có hệ thống quản lý riêng nằm trong hệ thống quản lý nền kinh tế quốc dân.
Cơ sở hình thành và phát triển vùng là các yếu tố tạo vùng, trong đó yếu tố
tiền đề là phân công lao động theo lãnh thổ. Sự phân công lao động theo ngành làm
xuất hiện quá trình phân công lao động theo lãnh thổ. Phân công lao động theo lãnh
thổ đã hình thành nên các vùng kinh tế. Vùng kinh tế là một bộ phận cấu thành nên
hệ thống nền kinh tế quốc dân, trên phạm vi lãnh thổ có nhiều vùng kinh tế từ đó
hình thành nên cơ cấu vùng kinh tế của nền kinh tế quốc dân.
Phân vùng là việc chia lãnh thổ đất nước ra những đơn vị đồng cấp, phục vụ
cho mục đích nhất định trong một khoảng thời gian nhất định, nên khó có thể có
một sự phân vùng khách quan “tuyệt đối và vĩnh viễn”. Nếu chúng ta hiểu vùng là
một thực thể khách quan thì phân vùng là sản phẩm của tư duy khoa học dựa trên
một số chỉ tiêu và phương pháp mà người nghiên cứu, người quản lý lựa chọn để
phân định vùng.
8
Khi tiến hành phân vùng kinh tế, người ta thường nghiên cứu sự xuất hiện và
quy luật vận động của các yếu tố tạo vùng khách quan. Từ đó, xác định những
nguyên tắc, quan điểm nhất định để đưa ra hệ thống các vùng với cơ cấu sản xuất và
cơ cấu lãnh thổ nhất định. Trong thực tế có nhiều cách phân vùng khác nhau, các
vùng được phân chia theo tiêu chí kinh tế như nguồn lực kinh tế, tổng hợp thể kinh
tế, tổ chức các ngành/các hoạt động, chức năng và năng lực kinh tế,… thành vùng
kinh tế ngành và cùng kinh tế tổng hợp.
Vùng kinh tế ngành là một vùng mà trong giới hạn của nó phân bổ tập trung
một ngành sản xuất nhất định, chẳng hạn như vùng nông nghiệp, vùng công nghiệp,
…Vùng kinh tế ngành cũng có tính chất tổng hợp của nó. Trong vùng kinh tế ngành
không chỉ có các ngành sản xuất chuyên môn hóa của nó, mà còn có cả một cơ cấu
phát triển tổng hợp tồn tại song song với các ngành sản xuất chuyên sâu - đóng vai
trò then chốt trong quá trình phát triển của vùng.
Sự hình thành và phát triển của vùng kinh tế ngành cũng là một quá trình
phát triển khách quan dựa trên cơ sở phân công lao động xã hội theo lãnh thổ. Lực
lượng sản xuất càng phát triển, cơ cấu kinh tế càng phức tạp thì vùng kinh tế ngành
sẽ xuất hiện nhiều ngành sản xuất mới, đan xen lẫn nhau dẫn đến sự mất ổn định
của vùng kinh tế ngành sản xuất chuyên môn hóa, hình thành nên vùng kinh tế
ngành tổng hợp phức tạp với đa dạng hóa sản phẩm. Nếu căn cứ vào các yếu tố tự
nhiên - kinh tế - kỹ thuật và yêu cầu phát triển của mỗi ngành trong quá trình phát
triển chung của nền kinh tế quốc dân, các ngành sẽ xác định hệ thống vùng kinh tế
ngành của mình để tiến hành xây dựng các kịch bản tổ chức lãnh thổ cho ngành sao
cho hợp lý nhất. Như vậy, vùng kinh tế ngành thực chất là một hệ thống các vùng
kinh tế của quốc gia được chia theo quan điểm ngành. Ở Việt Nam, kinh tế du lịch
được chia thành 4 vùng: Bắc bộ, Bắc Trung bộ, Nam Trung bộ và Nam bộ; về quan
điểm sinh thái nông nghiệp chia thành 7 vùng kinh tế nông nghiệp: Miền núi và
trung du phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng, Bắc trung bộ, Duyên hải Nam Trung bộ,
Tây Nguyên, Đông Nam bộ, Đồng bằng sông Cửu Long. Ngành thủy sản lại chia
thành 5 vùng sinh thái thủy sản: Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung bộ, Duyên hải
Nam Trung bộ, Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. Theo quan điểm phát
triển ngành công nghiệp trên cơ sở phát huy tiề năng lợi thế của các vùng, người ta
chia thành 6 vùng công nghiệp: Miền núi và Trung du phía Bắc, Đồng bằng sông
Hồng, Duyên Hải Trung bộ, Tây Nguyên, Đông Nam bộ, Đồng bằng sông Cửu
Long.
Các vùng kinh tế có ý nghĩa quan trọng đối với chiến lược phát triển của
quốc gia trong từng thời kỳ, từng chính sách phát triển trên cơ sở phân bổ hợp lý
các nguồn lực sản xuất của từng ngành, từ đó cho phép phát huy tối đa lợi thế trong
phát triển ngành.
Vùng kinh tế tổng hợp là những vùng kinh tế đa ngành, có cơ cấu ngành
phức tạp, cơ cấu và quy mô hàng hóa lớn và phong phú. Các vùng kinh tế tổng hợp
là những lãnh thổ được lựa chọn theo quan điểm tổng thể của tất cả các ngành, các
lĩnh vực hoạt động có trên lãnh thổ trong mối quan hệ ảnh hưởng và phụ thuộc lẫn
nhau giữa chúng và quan hệ với các điều kiện phát triển của các vùng, quan hệ với
9
các lãnh thổ khác cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vùng kinh tế tổng hợp là
một bộ phận quan trọng cấu thành nên cơ cấu kinh tế nền kinh tế quốc dân. Sự
chuyên môn hóa của các vùng được quy định bởi các vùng kinh tế ngành tồn tại
trong vùng kinh tế tổng hợp mà sự chuyên môn hóa của nó có ý nghĩa quan trọng
đối với quá trình phát triển vùng kinh tế tổng hợp khác (tính liên vùng). Khi lực
lượng sản xuất càng phát triển, phân công lao động theo lãnh thổ ngành càng sâu
sắc sẽ làm cho cơ cấu kinh tế của vùng kinh tế tổng hợp trở thành sự chuyên môn
hóa của nhiều ngành kinh tế trong vùng. Số ngành chuyên môn hóa trong vùng kinh
tế tổng hợp tăng lên không đồng nghĩa với trình độ chuyên môn hóa của từng ngành
giảm xuống, bởi vì trong quá trình phát triển của vùng kinh tế tổng hợp làm xuất
hiện mối liên kết trong sản xuất của các ngành trong nội vùng cũng như đối với các
vùng kinh tế khác. Vùng kinh tế tổng hợp gồm 2 loại cơ bản:
Thứ nhất, Vùng kinh tế cơ bản: là vùng kinh tế có diện tích rộng, bao gồm
nhiều vùng kinh tế - hành chính cấp tỉnh. Vùng kinh tế cơ bản có thể có nhiều
ngành sản xuất chuyên môn hóa và sự phát triển tổng hợp của vùng cũng phức tạp
hơn so với vùng kinh tế hành chính. Vùng kinh tế cơ bản chỉ có ý nghĩa và chức
năng kinh tế. Tác dụng chủ yếu của vùng kinh tế cơ bản là giúp cho việc nghiên cứu
lập các chương trình kế hoạch dài hạn về phát triển kinh tế - xã hội, từ đó phân bổ
hợp lý lực lượng sản xuất trên phạm vi cả nước và giữa các vùng, hình thành nên
mối liên kết vùng, tạo nên sự cộng hưởng về lợi thế, cùng phát triển nhằm khai thác
hiệu quả tiềm năng của từng vùng và cả nước, góp phần phát triển cân đối lãnh thổ
và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Việc phân vùng kinh tế cơ bản là nhằm hoạch định chiến lược, xây dựng các
kế hoạch phát triển, xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách vĩ mô thực hiện chức
năng quản lý nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân. Các vùng kinh tế cơ bản
thường bao gồm nhiều đơn vị hành chính (các tỉnh, thành phố), nhưng bản thân
vùng kinh tế cơ bản lại không thành lập bộ máy quản lý hành chính mà đây là
những vùng trực thuộc Chính phủ Trung ương.
Thứ hai, Vùng kinh tế - hành chính, là đơn vị nằm trong vùng kinh tế - xã hội
lớn, không những có chức năng kinh tế, mà còn có chức năng hành chính. Vùng
kinh tế - hành chính là kết quả của sự thống nhất giữa quản lý kinh tế với quản lý
hành chính được xây dựng trên nguyên tắc kinh tế, ranh giới hành chính và kinh tế
thống nhất với nhau. Vùng kinh tế - hành chính thực hiện đồng thời chức năng quản
lý kinh tế và quản lý hành chính, có bộ máy quản lý riêng, có ngân sách và thị
trường địa phương
Văn kiện Đại hội IX xác định 6 vùng kinh tế - xã hội gắn với 3 vùng kinh tế
trọng điểm với nội dung phát triển từng vùng cụ thể như sau:
1- Đồng bằng sông Hồng và vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ
Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, đưa nhiều lao động
nông nghiệp sang các ngành công nghiệp, dịch vụ và đi lập nghiệp nơi khác.
Phát triển nông nghiệp hàng hóa đa dạng. Cùng với lương thực, đưa vụ đông thành
một thế mạnh, hình thành các vùng chuyên canh rau, cây ăn quả, thịt, hoa; mở rộng
10
nuôi, trồng thuỷ sản. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến và cơ khí phục vụ nông
nghiệp, các cụm, điểm công nghiệp, dịch vụ và làng nghề ở nông thôn.
Trong vùng kinh tế trọng điểm, phát triển các khu công nghiệp, khu công
nghệ cao, công nghiệp xuất khẩu, công nghiệp điện tử, thông tin và một số cơ sở cơ
khí đóng tàu, luyện kim, phân bón; các dịch vụ có hàm lượng tri thức cao; các trung
tâm mạnh của vùng và cả nước về đào tạo, khoa học và công nghệ, thương mại, y
tế, văn hoá, du lịch. Hoàn thiện và nâng cấp kết cấu hạ tầng, trước hết là các tuyến
trục quốc lộ, các cảng khu vực Hải Phòng, Cái Lân, các sân bay.
2- Miền Đông Nam bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
Hình thành và phát huy vai trò các trung tâm thương mại, xuất khẩu, viễn
thông, du lịch, tài chính, ngân hàng, khoa học và công nghệ, văn hoá, đào tạo đối
với khu vực phía Nam và cả nước. Đẩy mạnh công nghiệp khai thác dầu khí; sản
xuất điện, phân bón và hoá chất từ dầu khí. Hoàn chỉnh và nâng cấp các khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. Mở mang công nghiệp ở các tỉnh, không
tập trung quá mức vào các đô thị lớn.
Phát triển mạnh cây công nghiệp (cao su, cà phê, điều, mía đường, bông...),
cây ăn quả, chăn nuôi công nghiệp, chăn nuôi đại gia súc, hình thành các vùng
chuyên canh tập trung gắn với công nghiệp chế biến, tạo điều kiện thu hút thêm lao
động từ Đồng bằng sông Cửu Long.
Nâng cấp các tuyến quốc lộ nối với các vùng và quốc tế; nâng cấp và xây
dựng mới một số cảng biển, sân bay. Xây dựng đô thị trên các trục phát triển gắn
với khu công nghiệp. Giải quyết tốt hệ thống giao thông đô thị, cấp và thoát nước,
khắc phục ô nhiễm môi trường.
3- Bắc Trung bộ, Duyên hải Trung bộ và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
Phát huy lợi thế biển và ven biển, khai thác có hiệu quả các tuyến đường trục
Bắc - Nam, các tuyến đường ngang, các tuyến đường Xuyên Á, các cảng biển. Hình
thành các KCN ven biển, các khu công nghiệp - thương mại tổng hợp và phát triển
kinh tế trên các cửa khẩu và hành lang dọc các tuyến đường. Phát triển các ngành
công nghiệp lọc, hoá dầu, vật liệu xây dựng, công nghiệp chế biến và chế tạo khác,
các loại hình dịch vụ. Xây dựng theo quy hoạch một số cảng nước sâu với tiến độ
hợp lý. Đẩy nhanh việc xây dựng khu kinh tế Dung Quất - Chu Lai. Phát triển mạnh
du lịch biển và ven biển, gắn liền với các khu di tích, danh lam thắng cảnh của cả
vùng, đặc biệt là trên tuyến Huế - Đà Nẵng - Hội An - Nha Trang.
Phát triển nông nghiệp phù hợp với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, tăng
nhanh sản xuất cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc, kết hợp với công
nghiệp chế biến, đẩy mạnh trồng rừng. Có giải pháp hạn chế tác hại của thiên tai lũ
lụt, hạn hán nặng, kết hợp với bố trí lại sản xuất và dân cư. Phát triển kinh tế - xã
hội gắn với bảo vệ và cải thiện môi trường toàn dải ven biển. Khai thác có hiệu quả
vùng đất phía Tây, chú ý xây dựng các hồ chứa nước chống lũ và làm thủy điện.
Từng bước tạo điều kiện để vùng Bắc Trung bộ, Duyên hải Trung bộ liên kết với
11
Tây Nguyên tham gia có hiệu quả việc hợp tác kinh tế với Lào, Campuchia, nhất là
các tỉnh biên giới.
4- Trung du và miền núi Bắc bộ (Tây bắc và Đông bắc)
Phát triển mạnh cây công nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu, cây đặc sản,
chăn nuôi đại gia súc gắn với chế biến. Tạo các vùng rừng phòng hộ đầu nguồn
sông Đà, rừng nguyên liệu công nghiệp, gỗ trụ mỏ.
Xúc tiến nghiên cứu và xây dựng thủy điện Sơn La. Phát triển công nghiệp
khai thác, chế biến khoáng sản, nông sản, lâm sản, chú trọng chế biến xuất khẩu.
Hình thành một số cơ sở công nghiệp lớn theo tuyến đường 18 gắn với vùng kinh tế
trọng điểm Bắc bộ. Phát triển nhanh các loại dịch vụ, chú trọng thương mại. Nâng
cấp các tuyến đường trục từ Hà Nội đi các tỉnh biên giới, hoàn thành các tuyến
đường vành đai biên giới và các đường nhánh. Phát triển thủy lợi nhỏ gắn với thủy
điện nhỏ, giải quyết việc cấp nước sinh hoạt và điện cho đồng bào vùng cao. Phát
triển các đô thị trung tâm, các đô thị gắn với khu công nghiệp. Nâng cấp các cửa
khẩu và phát triển kinh tế cửa khẩu. Thực hiện tốt chính sách dân tộc, định canh,
định cư vững chắc, ổn định và cải thiện đời sống cho đồng bào dân tộc.
5- Tây Nguyên
Tây Nguyên là địa bàn chiến lược quan trọng của cả nước cả về kinh tế - xã
hội và quốc phòng - an ninh, có lợi thế để phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp sản
xuất hàng hoá lớn kết hợp với công nghiệp chế biến, phát triển công nghiệp năng
lượng và công nghiệp khai thác khoáng sản. Có chiến lược và quy hoạch xây dựng
Tây Nguyên giàu về kinh tế, vững mạnh về quốc phòng, an ninh, tiến tới thành
vùng kinh tế động lực.
Phát triển nhanh theo hướng thâm canh là chính đối với các cây công nghiệp
gắn với thị trường xuất khẩu (cà phê, cao su, chè, bông...), chăn nuôi đại gia súc,
trồng và bảo vệ rừng, cây dược liệu, cây đặc sản và công nghiệp chế biến nông, lâm
sản. Phát triển thủy điện lớn và vừa, các hồ chứa nước cho thủy lợi. Khai thác và
chế biến quặng bôxít. Phát triển công nghiệp giấy. Nâng cấp, khai thác tốt các tuyến
đường trục và đường ngang nối xuống vùng Duyên hải. Phát triển sự hợp tác liên
kết kinh tế - thương mại - dịch vụ với các nước láng giềng Lào, Campuchia. Có
chính sách thu hút vốn đầu tư, bố trí dân cư và lao động và đất đai theo quy hoạch,
nâng cao dân trí và trình độ công nghệ. Thực hiện tốt chính sách dân tộc, thật sự cải
thiện đời sống vật chất và văn hoá của đồng bào dân tộc.
6- Đồng bằng sông Cửu Long
Tiếp tục phát huy vai trò của vùng lúa và nông sản, thủy sản xuất khẩu lớn
nhất cả nước; đẩy mạnh sản xuất và nâng cao chất lượng lương thực, rau quả, chăn
nuôi, thủy sản hàng hoá. Phát triển công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông
nghiệp, các ngành, nghề tiểu, thủ công nghiệp và các dịch vụ. Triển khai xây dựng
các cụm công nghiệp sử dụng khí Tây Nam. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, tăng
tỷ trọng lao động công nghiệp, dịch vụ.
12
Hoàn chỉnh mạng lưới đường bộ và mạng giao thông thủy. Nâng cấp và mở
rộng quốc lộ 1A, mở thêm một số tuyến trục để phát triển giao thông phía Tây Nam.
Nâng cấp các quốc lộ đến các tỉnh lỵ. Xây dựng cầu qua sông Hậu và có đủ cầu trên
các tuyến này. Phát triển mạng đường liên huyện và giao thông nông thôn, xây cầu
kiên cố thay "cầu khỉ". Hoàn chỉnh các cảng sông, nâng cấp các sân bay. Quy hoạch
và xây dựng khu dân cư, kết cấu hạ tầng phù hợp với điều kiện chống lũ hàng năm
và ngăn mặn. Tiếp tục thực hiện các định hướng phát triển vùng của Chiến lược 10
năm 2001 - 2010 và các nghị quyết của Bộ Chính trị khoá IX về phát triển các
vùng, Văn kiện Đại hội X nhấn mạnh:
Thứ nhất, xây dựng các chính sách thích hợp tạo điều kiện cho tất cả các
vùng trong cả nước phát triển nhanh hơn trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh, hình
thành cơ cấu kinh tế hợp lý mỗi vùng và liên vùng; đồng thời, tạo ra sự liên kết giữa
các vùng nhằm đem lại hiệu quả cao, phát triển nhanh và ổn định, có sức cạnh
tranh; khắc phục tình trạng chia cắt, khép kín theo địa giới hành chính.
Thứ hai, tiếp tục xây dựng ba vùng kinh tế trọng điểm thành ba trung tâm
công nghiệp lớn có công nghệ cao, trung tâm tài chính, ngân hàng, viễn thông, đào
tạo và y tế chất lượng cao, trung tâm dịch vụ vận tải và giao thương quốc tế.
1.1.2. Cơ cấu kinh tế vùng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng
Có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm cơ cấu kinh tế. Theo quan
điểm duy vật biện chứng và lý thuyết hệ thống, có thể hiểu cơ cấu kinh tế là một
tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu tố của nền kinh tế quốc dân; giữa chúng có những
mối liên hệ hữu cơ, tương tác qua lại cả về số lượng và chất lượng, trong những
không gian và điều kiện kinh tế xã hội cụ thể, được vận động hướng vào những mục
tiêu nhất định. Hay nói một cách khác, cơ cấu kinh tế là một tổng thể hệ thống kinh
tế bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau
trong những không gian, thời gian và điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, phù hợp
với mục tiêu đã được xác định của nền kinh tế và hướng vào việc thực hiện các mục
tiêu đó.
Cơ cấu kinh tế thường gồm 03 phương diện sau hợp thành:
- Cơ cấu kinh tế ngành
- Cơ cấu thành phần kinh tế
- Cơ cấu vùng lãnh thổ
+ Cơ cấu kinh tế ngành là tổ hợp các ngành kinh tế hợp thành các tương
quan tỷ lệ, biểu hiện mối quan hệ giữa các ngành của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu
kinh tế ngành phần nào phản ánh trình độ phân công lao động xã hội của nền kinh
tế và trình độ phát triển lực lượng sản xuất của một quốc gia.
+ Cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ được hình thành chủ yếu từ việc bố trí sản
xuất theo không gian địa lý của một quốc gia, gắn liền với cơ cấu ngành và thống
nhất trong vùng kinh tế. Trong cơ cấu lãnh thổ có sự biểu hiện của cơ cấu ngành
trong điều kiện cụ thể của không gian lãnh thổ.
13
+ Cơ cấu thành phần kinh tế biểu hiện hệ thống tổ chức kinh tế với các hình
thức sở hữu khác nhau, có khả năng thúc đẩy sự phát triển của LLSX, thúc đẩy
phân công lao động xã hội. Cơ cấu thành phần kinh tế cũng là một nhân tố tác động
đến cơ cấu kinh tế ngành và cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ.
Ba bộ phận trên hợp thành cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc dân, có quan
hệ chặt chẽ với nhau, trong đó cơ cấu kinh tế ngành có vai trò quan trọng chi phối
các bộ phận khác trong tổng thể cơ cấu kinh tế quốc dân.
Cơ cấu kinh tế luôn thay đổi theo từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp
thành cơ cấu kinh tế không cố định. Đó là sự thay đổi về số lượng các ngành hoặc
sự thay đổi về quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các vùng lảnh thổ, các thành phần kinh
tế do sự xuất hiện hay biến mất của một số ngành và tốc độ tăng trưởng của các yếu
tố cấu thành cơ cấu kinh tế là không đồng đều.
Sự thay đổi cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù hợp
với môi trường phát triển gọi là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nội dung của chuyển
dịch cơ cấu kinh tế là cải tạo cơ cấu cũ lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dựng cơ
cấu mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ xung cơ cấu cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành một
cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn. Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế về thực
chất là sự điều chỉnh cơ cấu trên 3 mặt biểu hiện của cơ cấu kinh tế nhằm hướng sự
phát triển của toàn bộ nền kinh tế theo các mục tiêu kinh tế - xã hội đã xác định cho
từng thới kỳ phát triển. Về mặt lý thuyết, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một
quốc gia vừa là tiêu chí đánh giá chất lựong tăng trưởng kinh tế vừa phản ánh bản
chất của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Xu thế phát triển chung của cơ cấu kinh tế thế giới hiện nay là tỷ trọng các
sản phẩm ngành dịch vụ gia tăng trong khi tỷ trọng các sản phẩm nông nghiệp và
công nghiệp giảm dần. Sự gia tăng tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ, một ngành
được coi là thị trừong chính của các sản phẩm công nghệ cao, đựoc coi là hệ quả
của sự bùng nổ trong lĩnh vực công nghệ thông tin từ những năm 80 của thế kỷ
trước. Trong các nền kinh tế hiện đại, các hoạt động dịch vụ thừong đóng góp phần
lớn trong tổng giá trị gia tăng của sản phẩm (đóng gói, phân phối, dịch vụ sau bán
hàng…). Vì thế, các nền kinh tế phát triển thường đặc trưng bởi một tỷ trọng đóng
góp lớn của ngành dịch vụ.
Nền kinh tế Việt Nam kể từ khi đổi mới đã đạt được những thành tựu đáng
kể, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, nhưng cơ cấu kinh tế còn xa mới đạt được
trình độ của các nước phát triển. Một trong những mục tiêu trung và dài hạn của nền
kinh tế Việt Nam là dịch chuyển nền kinh tế hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại
hóa được đặc trưng bởi tỹ lệ hàm lượng công nghệ cao, chất xám trong sản phẩm
lớn, có giá trị gia tăng cao, được thể hiện bởi tỷ trọng các sản phẩm dịch vụ và công
nghiệp cao.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng và những thành tựu kỳ diệu của
công nghệ thông tin đã tạo điều kiện cho những nước kém và đang phát triển như
Việt Nam có thể tìm thấy cơ hội của mình nhờ vào việc tạo điều kiện và môi trường
để việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế xảy ra nhanh hơn, hiệu quả hơn theo hướng phù
14
hợp với mục tiêu phát triển và những cơ hội mới do thời đại mang lại. Quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể hiện phản ứng linh hoạt của nền kinh tế trong việc
tiếp thu công nghệ hiện đại, nhờ đó một số ngành sẽ nâng cao năng suất lao động
hơn các ngành khác. Sự dịch chuyển các yếu tố đầu vào sang các ngành có năng
suất cao sẽ cải thiện chất lựong của sự tăng trưởng do việc sử dụng hiệu quả các yếu
tố đầu vào. Do vậy, sự thay đổi cơ cấu kinh tế ngành hặoc cơ cấu vùng…về thực
chất là sự điều chỉnh phương thức phân bổ và sử dụng các nguồn lực. Điều này tạo
cơ hội cho các nước như Việt Nam tăng trưởng và phát triển.
Quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế thường gắn liền và có quan hệ
hữu cơ với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sự gia tăng các yếu tố đầu vào, tăng năng
suất lao động ở các ngành, các lĩnh vực kinh tế trong quá trình tăng trưởng và phát
triển là không như nhau. Điều đó tác động làm cho tốc độ tăng trưởng ở các ngành
kinh tế không như nhau, làm thay đổi tỷ trọng của các ngành trong nền kinh tế, tạo
ra cơ cấu kinh tế mới phù hợp vơpí sự phát triển mới. Đồng thời, một chiến lược
chuyển dịch cơn cấu kinh tế phù hợp để điều chỉnh đầu tư hợp lý các yếu tố đầu vào
cho các ngành kinh tế có thể tạo ra sự tăng trưởng đáng kể và phát triển bền vững
cho nền kinh tế. Có thể nói, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình tất
yếu gắn liền với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, đồng thời, nhịp độ tăng
trưởng, tính chất bền vững của quá trình tăng trưởng và phát triển lại phụ thuộc vào
khả năng chuểy dịch cơ cấu kinh tế linh hoạt, phù hợp với nội của nền kinh tế, với
những điều kiện bên ngoài và những lợi thế bên trong của đất nước. Đây là mối
quan hệ biện chứng không thể tách rời.
Nói đến quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế, người ta thường quan
tâm đến hiệu quả sử dụng các nguồn lực hiện có, sự gia tăng các nguồn lực sản xuất
theo thời gian và cách thức phân phối sản phẩm và thu nhập cho các nhân tố sản
xuất. Còn khi nói đến cơ cấu kinh tế, người ta thường quan tâm đến các thành phần
có ý nghĩa cơ bản, tồn tại lâu dài, làm cơ sở cho những biến động thường xuyên
trong đời sống kinh tế. Cách thức thay đổi cơ cấu kinh tế sao cho phù hợp với quá
trình phát triển là một vấn đề hết sức quan trọng bởi nó có thệ tạo ra những động
lực mới thúc đẩy quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế có thể tạo ra những tiền đề cho sự phát
triển và hoàn thiện các loại thị trường của các yếu tố sản xuất và chính sự hoàn
thiện, phát triển các loại thị trường này sẽ thúc đẩy quá trình tăng trưởng và phát
triển kinh tế và quá đó lại làm sâu sắc thêm quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Các thị trường như: thị trường lao động, thị trường tài chính, khoa học công nghệ
với các yếu tố như lao động, vốn, tiến bộ cong nghệ có sự liên hệ chặt chẽ với quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Không thể có được một chiến lược chuyển dịch cơ
cấu kinh tế hiệu quả nếu không có các điều kiện hỗ trợ cần thiết về các nguồn lực
tài chính, công nghệ và con người…Việc phát triển thị trường lao động cả về số
lượng và chất lượng là yếu tố không thể thiếu được cho cả quá trình tăng trưởng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế; không có sự phát triển của nguồn nhân lực thì quá trình
tăng trưởng và phát triển không thể bền vững. Tương tự, việc thiếu vắng một thị