Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Một số cách tiếp cận khái niệm “năng lực” trong giáo dục.
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 462 (Kì 2 - 9/2019), tr 24-28
24 Email: ntanh@ntt.edu.vn
MỘT SỐ CÁCH TIẾP CẬN KHÁI NIỆM “NĂNG LỰC” TRONG GIÁO DỤC
Nguyễn Tuấn Anh - Trường Đại học Nguyễn Tất Thành
Ngày nhận bài: 18/6/2019; ngày chỉnh sửa: 01/8/2019; ngày duyệt đăng: 05/8/2019.
Abstract: In recent years, the concept of competency has been popularly used in higher education,
in vocational training and human resources administration. However, there is no uniform definition
for the term “competency”. In this article, we explore the diversity of the definitions to propose our
own definition that would capture most of the main characteristics of the concept.
Keywords: Competency, define, approach, education.
1. Mở đầu
Trong những năm gần đây, khái niệm “năng lực”
(NL) được sử dụng ngày càng phổ biến trong lĩnh vực
đào tạo nghề, giáo dục đại học. Phát triển NL được xem
là một cách tiếp cận hiện đại giúp nâng cao chất lượng
GD-ĐT và cải thiện hiệu quả quản trị. Từ “NL” xuất hiện
trong bài báo khoa học, tài liệu giảng dạy và cả văn bản
pháp quy. Tuy vậy, khảo sát các văn bản này cho thấy có
sự khác nhau về định nghĩa và cách hiểu thuật ngữ “NL”.
Hiện trạng này không phải là duy nhất cho Việt Nam mà
là trên cả thế giới (ít nhất là tại các nước Âu - Mĩ). Bằng
phương pháp nghiên cứu văn bản, bài viết chỉ ra thực
trạng đa dạng trong việc sử dụng thuật ngữ “NL” tại Việt
Nam và trên thế giới để từ đó tìm kiếm một định nghĩa
phù hợp cho lĩnh vực GD-ĐT.
2. Nội dung nghiên cứu
Bài viết này sử dụng phương pháp khảo sát tài liệu
để cho thấy sự khác nhau trong việc định nghĩa và sử
dụng thuật ngữ NL tại Việt Nam và trên thế giới. Sự
khác nhau này được giải thích bởi lịch sử và vai trò đa
dạng của thuật ngữ trong nghiên cứu. Để làm rõ sự đa
dạng của thuật ngữ, chúng tôi thống kê tất cả các cách
tiếp cận và phân loại NL, các đặc tính của nó. Đây là
cũng là nền tảng để đi tới một định nghĩa NL phù hợp
cho GD-ĐT.
2.1. Thuật ngữ “năng lực” tại Việt Nam
Theo Từ điển tiếng Việt thì NL có 2 nghĩa chính,
một là: “Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc điều kiện
tự nhiên sẵn có để thực một hoạt động nào đó”; hai là:
“Phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả năng
hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng
cao” [1]. Trong hai nghĩa này, thì nghĩa thứ 2 gắn với
thuộc tính con người và hầu hết các thảo luận về NL
gần đây đều hướng đến. Thế nhưng, nội hàm “phẩm
chất tâm lí và sinh lí” và “chất lượng cao” là như thế
nào và cách hiểu và vận dụng trong GD-ĐT ra sao thì
chưa được làm rõ.
Trong giáo dục nghề nghiệp, văn bản pháp quy về
yêu cầu NL trong đào tạo nghề của Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội giải thích “NL của người học đạt
được sau khi tốt nghiệp là những kiến thức, kĩ năng, thái
độ, trách nhiệm nghề nghiệp và khả năng làm việc của cá
nhân trên cơ sở áp dụng các kiến thức, kĩ năng và trách
nhiệm trong giải quyết công việc tương ứng với trình độ
và ngành, nghề đào tạo”. Với cách hiểu này, nội hàm của
NL vuợt lên phẩm chất tâm lí và sinh lí; NL như vậy là
danh mục các thuộc tính kiến thức, kĩ năng, khả năng [2].
Trong một chuyên đề đào tạo nghề, Đỗ Mạnh Cường
coi NL “như là sự tích hợp của kiến thức - kĩ năng - thái
độ làm thành khả năng thực hiện một công việc sản xuất
và được thể hiện trong thực tiễn sản xuất”. Như vậy, NL
là một bước tiến vượt trên danh mục các thuộc tính kiến
thức, kĩ năng, thái độ [3].
Trong lĩnh vực giáo dục, cũng có nhiều định nghĩa
khác nhau về NL. Nguyễn Thu Hà xem NL là sự kết hợp
của các khả năng, phẩm chất, thái độ của một cá nhân
hoặc tổ chức để thực hiện một nhiệm vụ có hiệu quả [4].
Tương tự, theo Nguyễn Lộc và Nguyễn Thị Lan Phương
thì “NL của một người là nói đến khả năng kết hợp các
kiến thức, kĩ năng (nhận thức và thực hành), thái độ, động
cơ, cảm xúc, giá trị, đạo đức để thực hiện các nhiệm vụ
trong bối cảnh, tình huống thực tiễn có hiệu quả” thể hiện
quan điểm NL như là sự kết hợp các thuộc tính đầu vào
[5]. Trong khi đó, thông tư về đào tạo giáo viên của Bộ
GD-ĐT định nghĩa “NL của người học đạt được sau khi
tốt nghiệp là khả năng làm việc cá nhân và làm việc nhóm
trong… tương ứng với trình độ và ngành đào tạo trên cơ
sở những kiến thức, kĩ năng, thái độ, ý thức trách
nhiệm…, tính chủ động sáng tạo trong giải quyết các vấn
đề liên quan, tuân thủ các nguyên tắc về đạo đức…”, như
vậy nhấn mạnh NL như là việc đạt đến kết quả đầu ra [6].
Một số nghiên cứu về quản trị nhân sự lại xem NL là
“toàn bộ kiến thức, kĩ năng, thái độ, giá trị và các thuộc
tính cá nhân để thực hiện thành công một hoạt động nào
đó, trong một tình huống nhất định” [7] hay “bất cứ thái
độ, kĩ năng, hành vi, động cơ hoặc các đặc điểm cá nhân
khác (KSAOs) có vai trò thiết yếu để hoàn thành công
việc, hoặc quan trọng hơn là có thể tạo ra sự khác biệt về