Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Mối tương quan giữa mục tiêu tăng vốn với khả năng tạo thanh quản của ngân hàng
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
CÔNG NGHỆ NGÁN HÀNG
MÕI TƯƠNG QUAN GIỮA MỤC TIÊU TÀNG VON
VỚI KHẢ NĂNG TẠO THANH KHOẢN CỦA NGÂN HÀNG
Chu Thị Thanh Trang, Phạm Thị Thanh Xuân,
Nguyễn Thị Mỹ Linh, Nguyễn Thị Bảo N* gọc
M c ích c a nghiên c u này là xác nh m i quan h qua l i gi a kh n ng t o thanh
kho n và m c tiêu t ng v n trong các ngân hàng th ong m i Vi t Nam. Nghiên c u ã
ch ng minh có s t n t i m i quan h hai chi u, ánh i gi a hai bi n s nà . Áp l c
t vi c theo u i m c tiêu t ng v n áp ng chu n Basel II trong th i gian qua, ã làm
h n chê' ch c n ng t o thanh kho n cho n n kinh t - m t trong nh ng ch c n ng quan
tr ng nh t c a ngân hàng. Phát hi n này, m t m t, có ý ngh a v m t h c thu t, ng
th i, có th có ý ngh a chính sách quan tr ng liên quan n vi c xác nh các m c tiêu
v a m b o an toàn h th ng, v a phát huy c ch c n ng cung thanh kho n h
th ng ngân hàng.
1. Gi i thi u
Theo lý thuyết trung gian tài
chính, một trong những vai trò
chính của ngân hàng trong bất
kỳ nền kinh tế đó là tạo thanh
khoản (liquidity creation - LC)
(Berger và Bouwman, 2009 &
Allen và Carletti, 2012). Trước
đây, các ngân hàng tạo thanh
khoản cho nền kinh tế bằng cách
huy động và tích lũy cộng dồn
các khoản tiền gửi nhỏ, kỳ hạn
ngắn rời rạc, tạo thành các khoản
vốn lớn, kỳ hạn gối đầu dài,
dùng để tài trợ cho các khoản
vay, đầu tư dài hạn. Cùng với sự
phát triển đa dạng các dịch vụ,
hoạt động của mình, khả năng
tạo thanh khoản của các ngân
hàng được mở rộng đến các hoạt
động ngoại bảng, thông qua các
cam kết tín dụng. Có thể nói,
chức năng tạo và cung thanh
khoản để đáp ứng nhu cầu vốn
cho nền kinh tế chính là lý do
của sự tồn tại tất yếu khách quan
của ngân hàng.
Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu
đã chỉ ra và dấy lên sự lo ngại về
việc chức năng tạo thanh khoản
của ngân hàng đang bị chèn lấn,
‘ Đai học Tài chinh - Marketing
hạn chế bởi các mục tiêu khác
của ngân hàng, tiêu biểu là mục
tiêu nâng vốn để đảmbảo an toàn
vốn cho hệ thống. Điều này bắt
đầu xuất hiện rõ nét hơn từ sau
cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu 2008 - 2009. ủy ban Basel
về Giám sát Ngân hàng (BCBS),
với mục tiêu hạn chế rủi ro lan
truyền trong các ngân hàng trong
hệ thống ngân hàng toàn cầu, đã
đưa ra một số khung quy định áp
dụng cho hệ thống, được gọi là
Basel (Basel II, III). Một phần
cải cách trọng tâm của Basel là
nhằm tăng cường các yêu cầu về
vốn. Các yêu cầu và quy định
về an toàn vốn ngày càng cao
tạo nhiều áp lực lên hệ thống
ngân hàng. Cụ thể, ở Basel III,
các ngân hàng được yêu cầu
phải nắm giữ vốn tự có lên
đến 9,5% tổng tài sản có trọng
số rủi ro, một mức tăng đáng
kể về yêu cầu vốn từ Basel II
(8,5%). Áp lực tăng vốn tạo ra
các hiệu ứng trái chiều và có
thể ngược với kỳ vọng trong hệ
thống ngân hàng. Các ngân hàng
thương mại chưa đạt chuẩn về
vốn chịu áp lực cao hon. Trong
nỗ lực tăng vốn để đáp ứng tiêu
chuẩn, các ngân hàng này có thể
giảm việc nắm giữ các tài sản rủi
ro để đáp ứng các yêu cầu về vốn
theo quy định, do đó làm giảm
khả năng tạo thanh khoản (Tran,
Lin và Nguyen, 2016). Tác động
nghịch này cũng ghi nhận từ rất
nhiều nghiên cứu trên thế giới
(Berger và Bouwman, 2009;
Berger, Bouwman và Berger,
2014; Fungacova, Turk và Weill,
2015; Tu, 2015; Li và Malone,
2016; Tran, Lin và Nguyen,
2016; Fungacova, Weill và
Zhou, 2017; Ozturk Danisman,
2018).
Một điều đáng nói, bối cảnh
trên lại chính là hiện thực của
Việt Nam 5 năm qua (từ năm
2015 đến nay), khi mà các ngân
hàng thương mại Việt Nam chạy
đua, áp dụng các giải pháp, chiến
dịch hành động để tăng vốn, đạt
chuẩn Basel II vào 1/1/2020.
Đây là nhiệm vụ khá nặng nề khi
Ngân hàng Nhà nước đã nhấn
mạnh rằng, nếu các ngân hàng
vi phạm quy định về an toàn
vốn đối với ngân hàng thương
mại theo Thông tư số 41/2016/
TT-NHNN ngày 30/12/2016, kể
từ ngày 1/1/2020 thì sẽ có các
chế tài xử lý. Chính bối cảnh
đó đã thúc đẩy nhóm tác giả
TẠP CHÍ NGÁN HÀNG I số 2 I THANG 1/2021