Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Luận văn: Chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu của Việt nam từ nay đến năm 2003 potx
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Luận văn: Chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất
khẩu của Việt nam từ nay đến năm 2003
Chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất
khẩu của Việt nam từ nay đến năm 2003
LỜI NÓI ĐẦU
Thế giới đã và đang diễn ra những biến đổi to lớn và sâu sắc. Những thay đổi đó,
một mặt tạo ra những cơ hội thuận lợi cho các nớc đang trên đà phát triển có thể nắm bắt
vơn tới nhằm đạt đợc những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, mặt khác đang đặt ra những
thách thức, những vấn đề phức tạp hơn mà mỗi quốc gia phải đối phó giải quyết.
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới đang phát triển nh vũ
bão với tốc độ nhanh trên tất cả các lĩnh vực. Sự phát triển của khoa học công nghệ đã đẩy
nhanh quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới. Hợp tác quốc tế đã trở thành yêu cầu
tất yếu đối với sự phát triển đi lên của mỗi quốc gia. Để hội nhập vào nền kinh tế khu vực
và trên thế giới, Việt nam cần phải có các chiến lợc phát triển kinh tế đúng đắn, phù hợp
với khả năng của mình. Chiến lợc tăng trởng dựa vào xuất khẩu là một chiến lợc của toàn
bộ nền kinh tế, của toàn xã hội.
Để khắc phục nguy cơ tụt hậu về kinh tế và thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã
hội đến năm 2000 và các năm tiếp theo. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng
định và nhất quán thực hiện “Chiến lợc tăng trởng dựa vào xuất khẩu”.
Đã có nhiều bài viết về vấn đề này, tuy nhiên mỗi bài viết lại đề cập đến một khía
cạnh khác nhau, cha nêu lên đợc toàn cảnh trong quá trình thực hiện. Để góp phần làm
sáng tỏ vấn đề, em lựa chọn đề tài: “Chiến lợc tăng trởng dựa vào xuất khẩu của Việt
nam từ nay đến năm 2003”.
Trong bài viết, em xin trình bày các nội dung:
* Chơng I: Tổng quan chiến lợc tăng trởng dựa vào xuất khẩu.
* Chơng II: Chính sách trong chiến lợc thúc đẩy xuất khẩu.
* Chơng III: Tình hình xuất khẩu của Việt nam trong thời gian qua.
* Chơng IV: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh chiến lợc tăng trởng
dựa vào xuất khẩu của Việt nam.
Trong quá trình nghiên cứu, do kiến thức hiểu biết còn hạn chế, nên trong bài viết
không tránh khỏi những khiếm khuyết. Rất mong đợc sự đóng góp của các thầy cô giáo và
các bạn để đề tài đợc hoàn chỉnh hơn.
Hà nội 1998.
CHƠNG I
TỔNG QUAN CHIẾN LỢC TĂNG TRỞNG DỰA VÀO XUẤT KHẨU
I. TÍNH TẤT YẾU CỦA CHIẾN LỢC.
1. Từ cách tiếp cận công nghiệp hoá.
Đã từ lâu, Đảng ta xác định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời
kỳ quá độ lên CNXH. Điều đó có nghĩa là công nghiệp hoá đất nớc có ý nghĩa quyết định
độ dài thời kỳ quá độ lên một xã hội phồn vinh, bình đẳng và văn minh ở nớc ta.
Hơn 30 năm qua, sự nghiệp công nghiệp hoá đất nớc mặc dù đã đạt đợc những tiến
bộ đáng kể, nhng Việt nam vẫn là một nớc nghèo và lạc hậu. Trong khi đó các nớc NICs
và ASEAN lại đạt đợc sự phát triển “thần kỳ”, “năng động” trong sự nghiệp công nghiệp
hoá đất nớc. Điều đó phải có cách tiếp cận mới về công nghiệp hoá.
Từ trớc tới nay, chúng ta vẫn xác định, công nghiệp hoá là quá trình chuyển biến
cách mạng về mặt kỹ thuật sản xuất, biến lao động thủ công thành lao động sử dụng máy
móc. Điều này là hoàn toàn đúng với thực chất của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Song
quá trình chuyển biến kỹ thuật đó nh thế nào. Trong lịch sử đã có các kiểu chuyển biến
nào là có hiệu quả và phù hợp với mọi quá trình phát triển. Đó là vấn đề cần đợc nghiên
cứu sâu sắc hơn để tìm ra con đờng, cách đi công nghiệp hoá thích hợp với nớc ta trong
điều kiện khoa học phát triển nh vũ bão.
Kinh nghiệm công nghiệp hoá của các nớc chỉ ra là có ba kiểu thực hiện công
nghiệp hoá.
Thứ nhất, bằng con đờng cải tiến kỹ thuật sản xuất trong nớc từ kỹ thuật thủ công
lên nửa cơ khí rồi cơ khí hoá, tự động hoá, hoá học hoá hoặc kết hợp giữa cách tiến tuần tự
nhảy vọt từ thủ công lên cơ khí tự động hoá gắn liền với nó là chuyển dịch cơ cấu từ nông
nghiệp sang công - nông nghiệp - dịch vụ. Đây là chiến lợc truyền thống về công nghiệp
hoá.
Thứ hai, vào những năm 50 của thế kỷ này, một số nớc đang phát triển, sau khi
giành đợc độc lập dân tộc đã áp dụng chiến lợc công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu. Về cơ
bản, chiến lợc này dựa vào độc lập dân tộc, muốn xây dựng một nền công nghiệp dân tộc
bằng cách tự tạo cho mình một nền khoa học công nghệ trên cơ sở đóng cửa, bảo hộ sản
xuất trong nớc, nhằm sản xuất ra hàng hoá tiêu dùng trớc đây vẫn phải nhập khẩu.
Thứ ba, thông qua con đờng nhập khẩu ngay từ đầu để tranh thủ những tiến bộ khoa
học kỹ thuật hiện đại của thế giới dựa vào lợi thế so sánh của đất nớc nhằm đẩy mạnh sản
xuất hàng xuất khẩu, từ đó tiến hành hiện đại hoá đất nớc. Cách đi này gọi là công nghiệp
hoá theo hớng xuất khẩu.
Đối với cách đi thứ nhất, đã có nhiều công trình nghiên cứu và đã có nhiều kết luận
khá rõ ràng. Trong khi đó, cách đi thứ hai và thứ ba đối với nớc ta và các nớc đang phát
triển nói chung còn nhiều vấn đề cần phải đợc tổng kết và làm sáng tỏ.
Ở nớc ta, khi xác định những quan diểm lớn về công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Hội
nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng đã khẳng định “kiên trì chiến
lợc hớng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nớc sản
xuất có hiệu quả, phát huy lợi thế so sánh của đất nớc cũng nh từng ngành, từng vùng,
từng lĩnh vực trong từng thời kỳ, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh trên thị trờng trong
nớc, thị trờng khu vực và thị trờng quốc tế”. Chính vì vậy, vấn đề công nghiệp hoá, hiện
đại hoá theo hớng xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu đang là vấn đề bức xúc.
2. Xu hớng trong chiến lợc thơng mại của các nớc.
Trong chiến lợc thơng mại của các nớc có ba mô hình phát triển thơng mại quốc tế.
Một là chiến lợc phát triển sản phẩm sơ chế; hai là chiến lợc sản xuất hàng nội địa thay thế
hàng nhập khẩu; ba là chiến lợc sản xuất hàng xuất khẩu.
Chiến lợc xuất khẩu sản phẩm sơ chế là một chiến lợc hoàn toàn dựa vào tài nguyên,
kinh tế tự nhiên, đợc một số nớc đang phát triển thực hiện thời kỳ đầu sau chiến tranh.
Song nó đã bị phủ định. Những ý kiến hiện nay tập trung vào hai chiến lợc: sản xuất thay
thế nhập khẩu và sản xuất hớng về xuất khẩu.
2.1. Sản xuất thay thế hàng nhập khẩu.
Chiến lợc sản xuất thay thế hàng nhập khẩu đã đợc hầu hết các nớc công nghiệp
phát triển hiện nay theo đuổi trong thế kỷ XIX. Ở các nớc đang phát triển chiến lợc này
đợc thử nghiệm đầu tiên ở các nớc Mỹ La tinh. Một số nớc Châu Á nh Ấn Độ, Thổ Nhĩ
Kỳ, cũng thực hiện chiến lợc này trên con đờng công nghiệp hoá từ trớc chiến tranh thế
giới thứ hai. Ở hầu hết các nớc Châu Á và Châu Phi mong muốn nhanh chóng xây dựng
một nền kinh tế độc lập đang là động lực khiến các nớc đó bớc vào con đờng phát triển
thay thế hàng nhập khẩu. Trong những năm 60, thay thế hàng nhập khẩu đã trở thành
chiến lợc phát triển kinh tế chủ đạo. Phơng pháp luận của chiến lợc thay thế hàng nhập
khẩu là: trớc hết, cố gắng tự sản xuất để đáp ứng đại bộ phận nhu cầu về hàng hoá và dịch
vụ cho thị trờng nội địa. Đảm bảo các nhà sản xuất trong nớc có thể làm chủ đợc kỹ thuật
sản xuất hoặc các nhà đầu t nớc ngoài cung cấp công nghệ, vốn và quản lý hớng vào việc
cung cấp cho thị trờng nội địa là chính. Lập các hàng rào bảo hộ để hỗ trợ cho sản xuất
trong nớc có lãi, khuyến khích các nhà đầu t trong những ngành công nghiệp là mục tiêu
phát triển. Các biện pháp thực hiện thay thế nhập khẩu thờng là thuế quan, bảo hộ, hạn
ngạch nhập khẩu và tỉ giá cao.
Việc áp dụng chiến lợc thay thế nhập khẩu đã đem lại sự mở mang nhất định các cơ
sở sản xuất, giải quyết công ăn việc làm bớc đầu thực hiện đô thị hoá, hình thành các chủ
doanh nghiệp có đầu óc kinh doanh. Ở Việt nam, trong giai đoạn hiện nay, áp dụng chiến
lợc thay thế hàng nhập khẩu còn nhằm bảo vệ nền công nghiệp, các nhà sản xuất non trẻ
trong nớc có điều kiện phát triển.
Song kinh nghiệm của các nớc đi trớc cho thấy: nếu chúng ta dừng lại quá lâu ở giai
đoạn chiến lợc thay thế nhập khẩu sẽ vấp phải những trở ngại lớn.
Chiến lợc sản xuất hàng nội địa thay thế hàng nhập khẩu thực chất nhằm vào thoả
mãn nhu cầu trong nớc là chính, chú trọng nhiều đến tự cấp của thị trờng nội địa. Với
chiến lợc nh vậy, ngoại thơng không đợc coi trọng, coi nhẹ mặt tích cực của kinh tế thế
giới đối với sự phát triển kinh tế trong nớc. Điều này sẽ hạn chế khai thác tiềm năng của
đất nớc trong việc phát triển ngoại thơng. Kinh tế các nớc đang phát triển trong giai đoạn
đầu công nghiệp hoá là nền kinh tế thiếu thốn đủ thứ nh: vốn ít, tổng cầu vợt quá tổng
cung, thờng thông qua nhập khẩu để cân bằng xu thế này và không thể khắc phục đợc
ngay trong thời gian ngắn. Nếu chúng ta hạn chế quá mức việc nhập khẩu, thực hiện chính
sách bảo hộ không thích hợp sẽ làm giảm tốc độ phát triển kinh tế. Cán cân thơng mại
ngày càng thiếu hụt, nạn thiếu ngoại tệ là trở ngại cho việc phát triển. Thực hiện thay thế
nhập khẩu tuy tiết kiệm đợc ngoại tệ trên phơng diện thành phẩm nhng lại đòi hỏi nhập
khẩu nhiều nguyên liệu và bán thành phẩm hơn để tăng cờng cung ứng cho sản xuất trong
nớc, đồng thời sản xuất thay thế nhập khẩu còn hạn chế việc phát triển các ngành sản xuất
hàng xuất khẩu và sản phẩm thu ngoại tệ. Do đó, không phải là chiến lợc lâu dài để bù vào
chỗ thiếu hụt cán cân thơng mại.