Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

LUẬN án TIẾN sĩ TRIẾT học TRIẾT học ấn độ cổ đại nội DUNG, đặc điểm và ý NGHĨA LỊCH sử
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---o0o---
TRỊNH THANH TÙNG
TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI -
NỘI DUNG, ĐẶC ĐIỂM VÀ
Ý NGHĨA LỊCH SỬ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---o0o---
TRỊNH THANH TÙNG
TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI -
NỘI DUNG, ĐẶC ĐIỂM VÀ
Ý NGHĨA LỊCH SỬ
Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 62.22.03.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS,TS. LƯƠNG MINH CỪ
2. TS. PHẠM LÊ QUANG
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2019
LỜI CÁM ƠN
Để hoàn thành luận án này, tôi đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ hết
sức quý báu của các tập thể và cá nhân.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và tri ân của tôi đến PGS, TS.
Lương Minh Cừ và TS. Phạm Lê Quang đã tận tâm hướng dẫn tôi nghiên cứu
và thực hiện luận án.
Tôi xin chân thành cám ơn tập thể quý thầy cô trong Khoa Triết học,
Phòng Sau đại học Trường Đại học khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học
quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã tận tình giúp đỡ, tạo mọi điều kiện cho tôi
trong qúa trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận án.
Cuối cùng, tôi xin được tỏ lòng biết ơn sâu sắc gia đình, những người
thân, bạn bè đồng nghiệp đã luôn là điểm tựa và là nguồn động viên to lớn về
mọi mặt để tôi hoàn thành luận án này.
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của tôi, dưới sự hướng
dẫn khoa học của PGS,TS. Lương Minh Cừ và TS. Phạm Lê Quang. Tư liệu
tham khảo, trích dẫn trong nội dung của luận án là từ chính các văn bản gốc và
hoàn toàn trung thực.
Tác giả
TRỊNH THANH TÙNG
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................. 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài.........................................................................13
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án.....................................................13
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án........................................14
6. Cái mới của luận án.............................................................................................14
7. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án..............................................14
8. Kết cấu cơ bản của luận án..........................................................................……15
PHẦN NỘI DUNG................................................................................................16
Chương 1: KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH, PHÁT
TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI.......................................................16
1.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ - XÃ HỘI VỚI QUÁ TRÌNH HÌNH
THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI ........................................16
1.1.1. Điều kiện tự nhiên của Ấn Độ cổ với quá trình hình thành và phát triển của
triết học Ấn Độ cổ đại.............................................................................................18
1.1.2. Điều kiện lịch sử - xã hội Ấn Độ cổ với quá trình hình thành, phát triển của
triết học Ấn Độ cổ đại.............................................................................................25
1.2. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN VĂN MINH VÀ CÁC THÀNH TỰU VỀ VĂN HÓA,
KHOA HỌC CỔ ẤN ĐỘ VỚI QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA TRIỀT
HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI................................................................................................40
1.2.1. Sự phát triển của nền văn minh cổ Ấn Độ với qúa trình hình thành và phát
triển của triết học Ấn Độ cổ đại ..............................................................................40
1.2.2. Những thành tựu về văn hóa và khoa học cổ Ấn Độ với quá trình hình thành,
phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại.......................................................................50
Kết luận chương 1.................................................................................................63
Chương 2: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI.............65
2.1. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ THỜI KỲ VEDA - SỬ THI (khoảng từ thế kỷ XV
trước Công nguyên đến thế kỷ VI trước Công nguyên) ..................................................65
2.1.1. Tư tưởng triết học trong kinh Veda ...............................................................69
2.1.2. Tư tưởng triết học trong kinh Upanishad.......................................................83
2.1.3. Tư tưởng triết học trong Ràmàyana và Mahàbhàrata .....................................92
2.2. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ THỜI KỲ PHẬT GIÁO - BÀ LA MÔN GIÁO (từ
thế kỷ VI trước Công nguyên đến thế kỷ III sau Công nguyên) .....................................101
2.2.1. Hệ thống triết học chính thống (The Orthodox Systems).............................104
2.2.2. Hệ thống triết học không chính thống (The Heterodox Systems).................118
Kết luận chương 2..............................................................................................135
Chương 3: ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ
CỔ ĐẠI................................................................................................................137
3.1. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHỦ YẾU CỦA TRIẾT HỌC ẮN ĐỘ CỔ ĐẠI .....................137
3.1.1. Tính thống nhất và đa dạng - đặc điểm nổi bật của triết học Ấn Độ cổ đại ..137
3.1.2. Sự đấu tranh và kế thừa - đặc điểm xuyên suốt của triết học Ấn Độ cổ đại .145
3.1.3. Triết lý đạo đức nhân sinh với tư tưởng giải thoát - một trong những vấn đề
trung tâm của triết học Ấn Độ cổ đại ....................................................................154
3.2. Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI.......................................168
3.2.1. Ý nghĩa về mặt tư tưởng của triết học Ấn Độ cổ đại....................................168
3.2.2. Ý nghĩa về mặt tôn giáo của triết học Ấn Độ cổ đại ....................................173
3.2.3. Ý nghĩa về mặt đạo đức của triết học Ấn Độ cổ đại.....................................176
Kết luận chương 3...............................................................................................181
PHẦN KẾT LUẬN CHUNG..............................................................................185
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................192
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN ...........................................................................................................198
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với Ai Cập, Babilon và Trung Hoa, Ấn Độ cổ đại là một
trong những cái nôi văn hóa lâu đời, rực rỡ, phong phú, thâm trầm, có sức
quyến rũ kỳ diệu của văn minh nhân loại. Trong nền văn hóa cổ xưa ấy
của Ấn Độ, triết học là một trong những lĩnh vực đặc sắc, phát triển không
thua kém bất kỳ một nền triết học nào trên thế giới.
Trên mảnh đất Ấn Độ, với điều kiện thiên nhiên hết sức đa dạng
nhưng cũng vô cùng kỳ vĩ và khắc nghiệt; vốn là cái nôi sinh ra và nuôi
dưỡng con người, nhưng cũng luôn là những yếu tố chi phối, tác động
đến đời sống con người, cùng với chế độ chiếm hữu nô lệ mang tính chất
gia trưởng hà khắc, lại bị kìm hãm bởi công xã nông thôn bảo thủ, trì trệ
và chế độ phân biệt đẳng cấp xã hội - chế độ varna khắt khe, triết học Ấn
Độ đã hình thành và phát triển; với những nhà tư tưởng, những kinh sách,
những trường phái triết học, tôn giáo đa dạng và sâu sắc, như kinh Veda,
kinh Upanishad, sử thi Ràmàyana và Mahàbhàrata, Bhagavad - gità, Luận
văn kinh tế - chính trị Artha-sàstra; như đạo Bàlamôn, đạo Phật, đạo Jaina
và các trường phái triết học như Sànkhya, Vais’esika, Nyàya, Yoga,
Mimàmsà, Vedànta và “Lục sư ngoại đạo” (Sattirthakaràh), trong đó đặc
biệt là trường phái Lokàyata hay Càrvàka...
Các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại như những bông hoa trong
vườn hoa muôn hương sắc, nảy sinh trên mảnh đất đặc biệt màu mỡ đó.
Nó luôn quan tâm đến số phận con người và luôn trăn trở tìm kiếm lời
giải đáp cho hàng loạt câu hỏi liên quan đến vấn đề nhân sinh như: “Con
người sinh ra từ đâu? Con người sống như thế nào? Con người trú ngụ ở
đâu khi chết đi?” (The Upanishas, vol 2, 1951, p. 71); Ý nghĩa cao đẹp
của cuộc đời con người là gì? Vì sao con người lại phải chịu những đau
khổ? Làm thế nào để giải phóng con người khỏi nỗi khổ của cuộc đời?
Chính cách đặt vấn đề và cách thức đi tìm những phương pháp để giải
2
quyết vấn đề về nhân sinh như thế đã làm cho triết học Ấn Độ cổ đại có
sức hấp dẫn kỳ lạ, trở thành đạo lý của người Ấn Độ, mang giá trị nhân
văn sâu sắc; do đó, nó thành thứ “triết học trẻ mãi”, bởi vì nó không chỉ
thể hiện mong muốn của người Ấn Độ trong quá khứ và hiện tại mà còn
thể hiện mơ ước của người Ấn Độ cả ở tương lai. Nó chính là triết lý
sống, nảy sinh từ đời sống và trở về với đời sống sinh động của con người
(Doãn Chính - Lương Minh Cừ, 1991, tr. 1). Nó chỉ ra cho mỗi chúng ta
bài học về đạo làm người, không chỉ trong quan hệ giữa con người với
con người, mà còn cả trong quan hệ giữa con người với chúng sinh và thế
giới xung quanh nữa; như Will Durant đã nói trong Our Oriental Heritage
do Simon and Schuster, New York, xuất bản năm 1954, rằng văn hóa Ấn
Độ nói chung và tư tưởng triết lý nhân sinh trong triết học Ấn Độ cổ đại
nói riêng:
“sẽ dạy cho chúng ta bài học khoan dung cao thượng, dấu hiệu của
một tâm hồn già giặn; dạy cho chúng ta có một tâm hồn thanh
thản, dễ tiếp thu những ý mới, có một trí óc bình tĩnh hiểu được
hết thảy, tha thứ cho hết thảy, sau cùng có một tấm lòng nhân từ
thương yêu mọi sinh vật, chỉ tấm lòng đó mới đoàn kết mọi người
với nhau được thôi” (Durant Will, 1954, p. 633).
Không những thế, triết học Ấn Độ cổ đại với tính chất nhân văn
của nó, đã đem lại cho nhân loại một cách nhìn mới về nhân sinh, đó là
quan điểm cho rằng tất cả tiền tài, danh vọng trong cuộc đời con người chỉ
như ảo ảnh, phù du; còn những giá trị tốt đẹp về tinh thần, trí tuệ, tâm hồn
và đạo đức con người mới là giá trị cao cả và vĩnh hằng; như sử gia người
Pháp Jules Michelet (1798 - 1874), đã hết lời ca ngợi rằng:
“Người nào đã từng hành động hoặc ham muốn quá nhiều, hãy
uống cạn ly rượu đầy sức sống và tươi trẻ này. Ở phương Tây cái
gì cũng chật hẹp. Hy Lạp nhỏ bé làm cho tôi ngột ngạt. Xứ Do
Thái khô khan làm cho tôi nghẹt thở. Hãy cho tôi hướng về Á
châu cao cả và phương Đông thâm trầm trong giây lát. Chính nơi
3
đó đã phát sinh ra bài thơ vĩ đại của tôi, mênh mông như Ấn Độ
dương ngập tràn ánh nắng mặt trời rực rỡ, tốt lành… tạo nên
không khí thái hòa và tình thương vô bờ bến ngay giữa những
cảnh tượng xung đột.” (Jawaharlal Nehru, 1954, vol. 1, p. 60).
Nền triết học và tôn giáo ấy không chỉ ảnh hưởng sâu đậm đến
truyền thống văn hóa, đời sống tinh thần, đạo đức, tâm linh của dân tộc
Ần Độ, mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến quan niệm, tư tưởng và triết lý
nhân sinh của nhân dân các nước trên thế giới. Việc đi sâu tìm hiểu,
nghiên cứu nội dung, đặc điểm và ý nghĩa lịch sử của triết học Ấn Độ cổ
đại không chỉ góp phần giúp chúng ta hiểu rõ truyền thống, bản sắc văn
hóa của dân tộc Ấn Độ, mà qua đó còn cho chúng ta thấy sự giao lưu,
dung hợp giữa văn hóa Ấn Độ với nền văn hóa của các dân tộc khác, cả
phương Đông và phương Tây, trong đó có Việt Nam.
Không những thế, nghiên cứu triết học Ấn Độ cổ đại còn giúp
chúng ta có một cách nhìn toàn diện và hệ thống về lịch sử phát triển tư
tưởng triết học của nhân loại; góp phần rèn luyện tư duy lý luận, vươn tới
đỉnh cao của khoa học, như Ph. Ăngghen đã từng nói: “Một dân tộc muốn
đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý
luận” (C.Mác và Ph. Ăngghen, 1995, t. 20, tr. 489); “nhưng tư duy lý luận
chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta mà thôi.
Năng lực ấy cần phải được hoàn thiện, và muốn hoàn thiện nó thì cho tới
nay, không có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời
trước.” (C.Mác và Ph. Ăngghen, 1995, t. 20, tr. 487). Với những lý do
trên, tôi chọn vấn đề “Triết học Ấn Độ cổ đại - nội dung, đặc điểm và ý
nghĩa lịch sử” làm đề tài luận án tiến sĩ Triết học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Với tư tưởng triết lý đạo đức nhân sinh phong phú và đặc sắc, triết
học Ấn Độ cổ đại đã được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước tìm
hiểu, nghiên cứu ở nhiều phương diện và góc độ khác nhau. Có thể khái
4
quát các công trình nghiên cứu về nội dung, đặc điểm và ý nghĩa của triết
học Ấn Độ cổ đại thành những chủ đề chính như sau:
Chủ đề thứ nhất, là các công trình nghiên cứu về triết học Ấn Độ
trong quá trình phát triển chung của đặc điểm điều kiện lịch sử - xã hội
và văn hóa Ấn Độ. Trong đó nổi bật là những công trình như: Di sản
phương Đông của chúng ta (Our Oriental Heritage) của Will Durant, do
Simon and Schuster, New York, xuất bản năm 1954, với Quyển 2 có tựa
đề Ấn Độ và những người láng giềng của mình (India and Her
Heighbors). Trong công trình này Will Durant đã phân tích khá sâu sắc về
lịch sử văn minh Ấn Độ trên các lĩnh vực như địa lý, dân cư, dân tộc, lịch
sử, kinh tế, chính trị - xã hội, tư tưởng, khoa học, kỹ nghệ, tín ngưỡng, tôn
giáo, ngôn ngữ, phong tục, tập quán, văn học, nghệ thuật, hội họa, âm
nhạc, điêu khắc, kiến trúc... trong đó có triết học tôn giáo Ấn Độ; hay tác
phẩm The Discovery of India (Phát hiện Ấn Độ), 3 tập của Jawaharlal
Nehru, do The Oxford University Press, New Delhi, India, xuất bản năm
1954, Phạm Thủy Ba, Lê Ngọc, Hoàng Túy và Nguyễn Tâm dịch ra tiếng
Việt, do Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, xuất bản năm 1990; cuốn Ấn Độ
cổ đại (Tiếng Nga) của GM. Bongard - Levin và GF. Ilyn, Nhà xuất bản
Khoa học, Mátxcơva, xuất bản năm 1985; Ấn Độ qua các thời đại của
Chiêm Tế, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1986, Đại cương văn hóa phương
Đông, Lương Duy Thứ (chủ biên) - Phan Nhật Chiêu - Phan Thu Hiền,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998; Hợp tuyển văn học Ấn Độ của Lưu Đức
Trung - Phan Thu Hiền, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2000.
Tuy đây không phải là những công trình chuyên biệt về triết học,
nhưng trên nền tảng lịch sử và văn hóa chung, các tác giả như Will
Durant, Jawaharlal Nehru, Sarvepalli Radhakrisnan… cũng đã nghiên cứu
khá toàn diện về triết học, tôn giáo Ấn Độ trên cơ sở điều kiện địa lý, cư
dân, lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và đưa ra những đánh giá,
những nhận định khá sâu sắc về triết học Ấn Độ.
5
Chẳng hạn, trong tác phẩm Di sản phương Đông của chúng ta (Our
Oriental Heritage), phần viết về lịch sử văn minh Ấn Độ (Ấn Độ và những
người láng giềng của mình - India and Her Neighbors), tư tưởng triết học
được Will Durant đề cập trong các Chương XIV: Những nền tảng của Ấn
Độ (The Foundations of India), gồm các vấn đề: “Đất đai”, “Nền văn
minh cổ nhất”, “Dân tộc Ấn - Aryan”, “Xã hội Ấn - Aryan”, “Tôn giáo
trong các kinh Veda”, “Các kinh Veda về phương diện văn học”, “Triết
học trong các kinh Veda”; Chương XV: Đức Phật (Buddha), gồm các vấn
đề: “Bọn theo tà giáo”, “Mahavira và các giáo đồ Jaina”, “Truyện Phật
Thích ca”, “Lời dạy của Đức Phật”, “Ngày cuối cùng của Đức Phật”;
Chương XVIII: Thiên đường của các vị thần (The Paradise of the Gods);
Chương XIX: Đời sống tinh thần (The Life of the mind), gồm các vấn đề
như: “Khoa học Hindu”, “Sáu hệ thống triết học Bàlamôn”, “Những kết
luận về triết học Hindu”, “Sử thi ở Ấn Độ”...
Còn trong tác phẩm The Discovery of India của Jawaharlal Nehru,
gồm 3 tập, 10 chương như: Chương 1: Pháo đài Ahmadnagar hai mươi
tháng; Chương 2: Badenweiler, Laussanne; Chương 3: Sự tìm kiếm;
Chương 4: Phát hiện Ấn Độ; Chương 5: Qua các thời đại chủ nghĩa dân
tộc và chủ nghĩa đế quốc dưới triều Guptas; Chương 6: Những vấn đề
mới; Chương 7: Giai đoạn cuối cùng (1); Chương 8: Giai đoạn cuối cùng
chủ nghĩa dân tộc đối đầu với chủ nghĩa đế quốc (2); Chương 9: Giai
đoạn cuối cùng (3); Chương 10: Một lần nữa ở pháo đài Ahmadnagar,
Jawaharlal Nehru không chỉ bàn đến văn minh, văn hóa Ấn Độ với những
nội dung, đặc điểm đặc sắc trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc Ấn Độ, mà
còn nghiên cứu về triết học tôn giáo Ấn Độ trong sự tác động, ảnh hưởng
với các yếu tố của văn hóa Ấn Độ, nhất là trong chương 4 và chương 5
của tập 1. Trong hai chương này, Jawaharlal Nehru đã nghiên cứu và trình
bày các điều kiện lịch sử, xã hội và văn hóa với sự hình thành triết học tôn
giáo Ấn Độ cổ đại qua các chủ đề lớn như: “Nền văn minh thung lũng
Indus”, “Ấn Độ giáo là gì?”, “Những ghi chép bộ kinh và thần thoại Ấn
6
Độ sớm nhất”, “Kinh Veda”, “Chấp nhận và phủ nhận cuộc sống”, “Kinh
Upanishads”, “Chủ nghĩa duy vật”, “Sử thi Mahàbhàrata”, “Bhagavad -
gità”, “Mahavira và Đức Phật”, “Đẳng cấp”, “Lời dạy của Đức Phật”,
“Triết học Phật giáo”, “Ảnh hưởng của đạo Phật vào đạo Hindu”, và đặc
biệt là hai phần: “Tiếp cận triết học Ấn Độ”, “Sáu hệ thống triết học”…;
hay trong tác phẩm Ấn Độ cổ đại của GM. Bongard - Levin và G.F. Ilyn,
với ba phần lớn, gồm Phần thứ nhất: Buổi bình minh của lịch sử; Phần thứ
hai: Hình thức của những đế chế đầu tiên; Phần thứ ba: Thời đại Kushana
Gupta, trên cái nền chung là lịch sử và lịch sử văn hóa Ấn Độ, các tác giả
đã trình bày và phân tích những điều kiện tự nhiên, lịch sử, dân tộc và văn
hóa Ấn Độ cổ chi phối, ảnh hưởng đến triết học và tôn giáo Ấn Độ cổ đại,
trong đó có những nhận định và đánh giá khá sâu sắc về nền triết học tôn
giáo này, như các vấn đề: “Sự nổi lên của nền văn minh - văn hóa
Harappa”, “Chế độ varna”, “Tôn giáo và văn hóa của thời đại Veda”
(trong Phần thứ nhất), “Phật giáo và Jaina giáo” (trong Phần thứ hai),
“Sự thay đổi của các tôn giáo xã hội và hệ thống chủng tính varna”;
“Mahayana và Hindu giáo”, “Các trường phái triết học cơ bản của Ấn
Độ thời cổ đại” (trong Phần thứ ba)…
Tất cả các công trình trên đã tập trung nghiên cứu những vấn đề liên
quan đến điều kiện và tiền đề hình thành, phát triển của triết học Ấn Độ cổ
đại. Đó là điều kiện địa lý, tự nhiên, khí hậu, dân tộc... hết sức đa dạng,
khắc nghiệt ở Ấn Độ cổ đại. Đó còn là điều kiện xã hội với chế độ nô lệ
mang tính chất gia trưởng hà khắc, lại bị kìm hãm bởi công xã nông thôn,
với sự khép kín về địa bàn cư trú, về dân cư, về tổ chức hành chính và nền
kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp, bảo thủ, trì trệ và chế độ phân biệt đẳng
cấp xã hội - chế độ varna, là sự phân biệt về chủng tính, sắc tộc, về hôn
nhân, nghề nghiệp, về tôn giáo và cả về sự giao tiếp hết sức khắt khe,
cùng với những thành quả phát triển đặc sắc của nền văn minh Ấn Độ cổ
đại, qua các thời kỳ lớn như: thời kỳ văn minh sông Ấn, thời kỳ văn minh
Veda - Sử thi, thời kỳ Phật giáo và Bàlamôn giáo, với các thành tựu khoa
7
học và văn hóa nổi bật trên các lĩnh vực như: thiên văn, lịch pháp, toán
học, y học, văn học, nghệ thuật, điêu khắc, kiến trúc... đã chi phối, ảnh
hưởng và ghi dấu ấn đậm nét trong nội dung và đặc điểm của triết học Ấn
Độ cổ đại.
Chủ đề thứ hai, đó là các công trình nghiên cứu về quá trình hình
thành, phát triển và những nội dung, đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại.
Trong đó đáng chú ý là những công trình: Indian Philosophy của S.
Radhakrisnan, do New York, The Machillan, xuất bản năm 1951; và The
Oxford University Press, New Delhi, India, xuất bản năm 1956; Six
Systems of Indian Philosophy của Max Muller, do Bhavan’s book
University, xuất bản năm 1899; Triết học Ấn Độ - một cách tiếp cận mới,
của Heinrich Zimmer, Nxb. Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, xuất bản năm
2006, đã nghiên cứu và trình bày về triết học Ấn Độ không phải dưới góc
độ lịch sử hình thành, phát triển của các trường phái triết học, tôn giáo Ấn
Độ cổ đại, mà tiếp cận dưới góc độ các chủ đề triết học chính của nền triết
học này, như: “Triết học về thời gian”, “Triết học về sự hoan lạc”, “Triết
học về bổn phận”, “Triết học về sự vĩnh hằng”, qua nội dung các kinh
sách và tư tưởng của các trường phái triết học, tôn giáo Ấn Độ cổ đại.
Đó còn là các tác phẩm như Đại cương triết học phương Đông của
Minh Chi và Hà Thúc Minh, Ban xuất bản Trường Đại học Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh, xuất bản năm 1993; tác phẩm Nhập môn triết
học Ấn Độ của Lê Xuân Khoa, do Trung tâm học liệu, Bộ giáo dục, Sài
Gòn, xuất bản năm 1972; tác phẩm Lịch sử triết học Ấn Độ của Thích
Mãn Giác, Ban tu thư Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, xuất bản năm 1967;
tác phẩm Lịch sử triết học phương Đông, 5 tập của Nguyễn Đăng Thục,
do Trung tâm học liệu, Bộ Giáo dục, Sài Gòn, xuất bản năm 1972; Triết
sử Ấn Độ - Nhập môn triết học Ấn Độ và Upanishad của Hoàng Sỹ Quý,
Nxb. Hưng giáo đồng văn, Sài Gòn, 1972; và các tác phẩm Lịch sử triết
học Ấn Độ cổ đại của Doãn Chính - Lương Minh Cừ, Nhà xuất bản Đại
học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội, xuất bản năm 1991, Tư tưởng
8
giải thoát trong triết học Ấn Độ của Doãn Chính, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội, xuất bản năm 1997; Mười tôn giáo lớn trên thế giới của
Hoàng Tâm Xuyên (chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1999 (Bản dịch của Dương Thu Ái và Phùng Thị Huệ)… Các công trình
này đã đi sâu trình bày nội dung của các trường phái triết học Ấn Độ cổ
đại, qua đó đã đưa ra những nhận định, đánh giá và rút ra những đặc điểm
của nó.
Chẳng hạn, trong tác phẩm Đại cương triết học phương Đông của
Minh Chi và Hà Thúc Minh, dựa theo quan điểm của nhà nghiên cứu
Aldous Huxley, đã trình bày bốn đặc điểm của triết học Ấn Độ như: Một
là, đằng sau thế giới hiện tượng vô cùng phong phú, đa dạng có một thực
tại duy nhất, không thay đổi mà Huxley gọi là “thần tính”, Ấn Độ giáo gọi
là Brahmàn, Phật giáo gọi là “Niết bàn”, “Chân như”… và mục tiêu cuối
cùng của thực nghiệm tâm linh là tiếp xúc cho được với “Cái đó”. Hai là,
để tiếp xúc được với “Cái đó”, người ta không dùng sự nhận thức thông
thường mà phải bằng sự trực giác (intuitive wisdom) hay là sự “thực
nghiệm tâm linh”. Ba là, con người ta có hai cái ta; một “Cái ta thật” và
một “Cái ta giả”. “Cái ta giả” là cái ta hiện tượng và “Cái ta thật” là cái
ta phổ biến cùng khắp vũ trụ, cái ta thanh tịnh, tuyệt đối, bất biến. Con
người sở dĩ đau khổ, chịu cảnh sinh tử luân hồi là do con người đánh mất
“Cái ta thật” và sống với “Cái ta giả”, cái ta hư vọng, tham lam, vị kỷ….
Bốn là, mục đích và ý nghĩa của nhân sinh trong triết học Ấn Độ là mọi
người hãy trở về với chân bản tính của mình, trở về với “Cái ta thật” của
mình. Một sự trở về có ý thức, trước hết bằng lối sống đức hạnh, hướng
thiện, vị tha, vô ngã để dần dần trở thành một con người hoàn thiện
(Minh Chi - Hà Thúc Minh, 1993, tr. 12 -13).
Còn trong tác phẩm Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ của
Doãn Chính, thông qua việc trình bày những nét khái quát về triết học
Ấn Độ và những đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại, như tính thống
nhất và đa dạng, sự thống nhất giữa triết học và tôn giáo, triết lý đạo đức
9
nhân sinh, vấn đề đời sống tinh thần tâm linh con người, tính nhân văn…
cuốn sách đã đặc biệt đi sâu phân tích, lý giải về nguồn gốc, mục đích,
nội dung, các con đường, cách thức của sự giải thoát - một trong những
vấn đề trung tâm, tối cao của tư tưởng triết học Ấn Độ.
Các công trình trong chủ đề thứ hai này, giúp chúng ta hiểu rõ được
bức tranh chung về triết học Ấn Độ qua các trường phái, các kinh sách với
những nội dung phong phú cùng với những đặc điểm và ý nghĩa lịch sử
đặc sắc của nó. Đó là tư tưởng triết học trong kinh Veda, Upanhishad
trong thời kỳ Veda - Sử thi (từ thế kỷ XV trước C.N đến thế kỷ VI trước
C.N) và đó là các trường phái Sànkhya, Vais’esika, Nyàya, Yoga,
Mimàmsa và Vedànta, gọi là các dasanas hay hệ thống triết học tôn giáo
chính thống, và ba môn phái Jaina, Lokàyata và Phật giáo, gọi là hệ thống
triết học tôn giáo không chính thống. thời kỳ Cổ điển hay thời kỳ Phật
giáo - Bàlamôn giáo (từ thế kỷ VI trước C.N đến thế kỷ III sau C.N).
Đặc biệt các công trình nghiên cứu về triết học Ấn Độ ở chủ đề thứ
hai còn cho thấy, nếu trong thời kỳ Veda - Sử thi, thế giới quan thần thoại
tôn giáo có tính chất đa thần tự nhiên là nội dung chủ yếu và tư tưởng triết
học còn mang tính tản mạn, thì sang thời kỳ Cổ điển hay thời kỳ Phật giáo
- Bàlamôn giáo các trường phái triết học Ấn Độ đã đi sâu vào lý giải và
trả lời cho những câu hỏi về các vấn đề: thế giới quan, nhận thức luận,
nhân sinh quan có tính khái quát, hệ thống, mạch lạc, chặt chẽ hơn.
Chủ đề thứ ba, là các công trình nghiên cứu từng trào lưu, từng
loại kinh sách triết học Ấn Độ. Trong đó phải nói đến các công trình như:
Tác phẩm A Sourcebook in Indian Philosophy, do Sarvepalli
Radhakrishnan và Charles A. Moore biên soạn, Princeton University
Prees, Princeton New Jersey xuất bản năm 1973, gồm các phần: Thời kỳ
Veda (kinh Veda, kinh Upanishad), Thời kỳ Anh hùng ca (Bhagavad gità,
Mahàbhàrata, Luật Manu, Artha-sàstra của Kautilya), Hệ thống triết học
tôn giáo không chính thống (Carvàka, Jainism, Buddhism), Hệ thống triết
học tôn giáo chính thống (Nyàya, Vais’esika, Sànkhya, Yoga, Pùrva