Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

(Luận Án Tiến Sĩ) Nghiên Cứu So Sánh Tư Tưởng Chính Trị Của Lê Quý Đôn Và Jeong Yak Yong.pdf
PREMIUM
Số trang
177
Kích thước
1.7 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1513

(Luận Án Tiến Sĩ) Nghiên Cứu So Sánh Tư Tưởng Chính Trị Của Lê Quý Đôn Và Jeong Yak Yong.pdf

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

-----***-----

KIM SANG HO

NGHIÊN CỨU SO SÁNH TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ

CỦA LÊ QUÝ ĐÔN VÀ JEONG YAK YONG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội, năm 2020

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

-----***-----

KIM SANG HO

NGHIÊN CỨU SO SÁNH TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ

CỦA LÊ QUÝ ĐÔN VÀ JEONG YAK YONG

Ngành: Triết học

Mã số: 9 22 90 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Thị Lan

Hà Nội, năm 2020

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ....................................... 5

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về Lê Quý Đôn ............................................ 5

1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu về Jeong Yak Yong .................................. 14

Kết luận chƣơng 1 ................................................................................................... 26

Chƣơng 2: BỐI CẢNH CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI, TƢ TƢỞNG THỜI LÊ QUÝ

ĐÔN VÀ JEONG YAK YONG ............................................................................. 27

2.1. Bối cảnh chính trị, xã hội, tƣ tƣởng thời đại Lê Quý Đôn ........................... 27

2.1.1. Bối cảnh chính trị - xã hội ........................................................................ 27

2.1.2. Tiền đề tư tưởng ....................................................................................... 32

2.2. Bối cảnh chính trị, xã hội, tƣ tƣởng thời đại Jeong Yak Yong .................... 41

2.2.1. Bối cảnh chính trị - xã hội ........................................................................ 41

2.2.2. Tiền đề tư tưởng ....................................................................................... 49

2.3. Những điểm tƣơng đồng và khác biệt về bối cảnh chính trị, xã hội, tƣ

tƣởng thời Lê Quý Đôn và Jeong Yak Yong ........................................................ 59

Kết luận chƣơng 2 ................................................................................................... 68

Chƣơng 3: TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ CỦA LÊ QUÝ ĐÔN VÀ JEONG

YAK YONG ............................................................................................................. 69

3.1. Tƣ tƣởng chính trị của Lê Quý Đôn ............................................................... 69

3.1.1. Tư tưởng về nguồn gốc, bản chất của chính trị ........................................ 69

3.1.2. Tư tưởng về vương đạo, bá đạo và quan điểm trị đạo dung hoà .............. 76

3.1.3. Tư tưởng về vai trò của các thành phần trong cơ cấu quyền lực xã hội ... 84

3.2. Tƣ tƣởng chính trị của Jeong Yak Yong ....................................................... 95

3.2.1. Tư tưởng về nguồn gốc và bản chất của chính trị hay cách luận giải của

Jeong Yak Yong về Thiên mệnh ........................................................................ 96

3.2.2. Tư tưởng về vương đạo .......................................................................... 104

3.2.3. Tư tưởng về Đế mệnh và hầu đới hay phương thức hình thành quyền

lực chính trị ....................................................................................................... 112

Kết luận chƣơng 3 ................................................................................................. 124

Chƣơng 4: SỰ TƢƠNG ĐỒNG, KHÁC BIỆT VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP

TRONG TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ CỦA LÊ QUÝ ĐÔN VÀ JEONG YAK

YONG ..................................................................................................................... 125

4.1. Một số khía cạnh tƣơng đồng và khác biệt trong tƣ tƣởng chính trị của

Lê Quý Đôn và Jeong Yak Yong ......................................................................... 126

4.1.1. Mối quan hệ giữa chính trị và tu dưỡng ................................................. 126

4.1.2. Quan niệm thiên mệnh và các vấn đề về quyền chính trị ....................... 129

4.1.3. Vương đạo và bá đạo, đức trị và pháp luật ............................................. 133

4.1.4. Vai trò của dân chúng trong cơ cấu quyền lực ....................................... 138

4.2. Đóng góp của Lê Quý Đôn và Jeong Yak Yong trong lịch sử tƣ tƣởng

chính trị Việt Nam và Hàn Quốc ......................................................................... 141

4.2.1. Một số đóng góp của tư tưởng chính trị Lê Quý Đôn trong lịch sử tư

tưởng Việt Nam ................................................................................................ 144

4.2.2. Một số đóng góp của tư tưởng chính trị Jeong Yak Yong trong lịch sử

tư tưởng Hàn Quốc ........................................................................................... 147

Kết luận chƣơng 4 ................................................................................................. 151

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 152

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN.............................................................................. 155

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 156

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Câu hỏi “chính trị là gì?” đã được đặt ra từ lâu với những lời giải đáp rất khác

biệt. Ở phương Đông và phương Tây, khái niệm chính trị được quan niệm không

giống nhau. Đặc biệt, khái niệm chính trị trong Nho giáo, như những gì có thể thấy

qua mối quan hệ giữa các nội dung „tu thân – tề gia – trị quốc – bình thiên hạ‟ của

sách Đại học, cho thấy ý nghĩa chính trị đã có ngay từ việc cai quản gia đình. Như

vậy, trong tư tưởng Nho học, chính trị không tách rời đạo đức con người và đạo lý gia

đình, T tu thân và trị quốc không tách rời nhau.

Trong thời kỳ phong kiến ở Việt Nam và Hàn Quốc, Nho học đã từng thống trị

đời sống chính trị và tinh thần của mỗi quốc gia. Với cả hai nước, Nho học là hệ tư

tưởng du nhập từ Trung Quốc từ rất lâu đời và ngày nay đã trở thành một thành tố

trong nền văn hóa truyền thống của mỗi nước. Mặc dù Nho giáo đã được truyền bá

vào Việt Nam và Hàn Quốc từ rất lâu, trong những bối cảnh lịch sử khác nhau và với

những nội dung khác nhau và ở mỗi nước, tư tưởng Nho giáo lại phát triển trong

những bối cảnh xã hội khác nhau,nhưng nó đều đã từng đóng vai trò hết sức quan

trọng trong chế độ chính trị của mỗi nước.

Vì thế, trong bối cảnh xã hội mỗi nước đang tiếp thu tích cực tư tưởng chính trị

của phương Tây như ngày nay, việc so sánh tư tưởng Nho học của hai nước vừa có

tác dụng đem lại sự hiểu biết mới mẻ hơn về nền tảng tư tưởng chính trị truyền

thống của hai nước, vừa có tác dụng làm phong phú thêm tư tưởng chính trị của mỗi

bên. Vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn tư tưởng chính trị của hai nhà Nho học tiêu biểu

của hai nước là Lê Quý Đôn của Việt Nam và Jeong Yak Yong của Hàn Quốc làm

đối tượng nghiên cứu của luận án.

Trong quá trình phát triển của Nho giáo mỗi nước, cũng giống như Nho giáo

Việt Nam phát triển rực rỡ vào thời Hậu Lê - vương triều phong kiến kéo dài nhất

trong lịch sử Việt Nam, Nho giáo Hàn Quốc phát triển nhất từ sau khi vương triều

Joseon thành lập vào cuối thế kỷ 14. Ở thời kỳ này, hai nước đều tiếp thu Tính lý học,

hệ học vấn mang tính hệ thống tư duy logic để bổ sung, phát triển cho Nho giáo

của mình. Và cùng với sự phát triển Nho giáo, nền văn hóa cũng phát triển với

chuẩn mực cao và hoạt động sáng tác trở nên sôi nổi.

2

Trong số những nhân vật xuất hiện trong thời kỳ này, Lê Quý Đôn và Jeong

Yak Yong là hai nhà Nho lớn của Việt Nam và Hàn Quốc, đều có ý thức quyết liệt

cải cách hiện thực, đã đưa ra nhiều tư tưởng chính trị riêng, đồng thời để lại một sự

nghiệp sáng tác đồ sộ với những tác phẩm có ý nghĩa quan trọng về tư tưởng chính

trị. Tuy nhiên, khuynh hướng học vấn của hai nhân vật này lại khác nhau. Nếu như

Lê Quý Đôn tích cực tiếp thu ảnh hưởng của Tống Nho thì Jeong Yak Yong lại vượt

ra khỏi khuynh hướng học vấn của Tống Nho và trở thành nhà „tập đại thành‟ của

Thực học. Nếu như cho rằng Lê Quý Đôn là nhà Nho chịu nhiều ảnh hưởng từ Tính

lý học Tống Nho, chúng ta có thể so sánh ông với hai học giả tiêu biểu của Tính lý

học thời Joseon là Toegye (退溪) Lee Hwang (李滉, Lý Hoảng, 1501~1570) và

Yulgok (栗谷) Lee I (李珥, Lý Nhĩ, 1536~1584). Nhưng Toegye và Yulgok thì

sống trong thời kỳ vương quyền của nhà Joseon tương đối ổn định, còn Lê Quý Đôn

và Jeong Yak Yong thì lại sống trong thời kỳ tương đương nhau về mặt thời gian, và

cả hai xã hội đều chứa đựng những bất ổn báo hiệu cho những hỗn loạn trong giai

đoạn sau. Vì thế, với bước đầu thực hiện nghiên cứu so sánh Nho giáo giữa Việt

Nam và Hàn Quốc, thì việc so sánh hai học giả này là sự lựa chọn hợp lý hơn. Đặc

biệt, vì chúng ta có thể so sánh tình hình chính trị, xã hội của hai xã hội đương thời

thông qua nghiên cứu về tư tưởng chính trị, nên luận án này sẽ là tài liệu hữu ích

cho những nghiên cứu khoa học sau này.

Với những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Nghiên cứu so sánh tư tưởng chính

trị của Lê Quý Đôn và Jong Yak Yong” làm đề tài luận án tiến sĩ triết học của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích: làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng chính trị của Lê Quý

Đôn và Jeong Yak Yong, trên cơ sở đó chỉ ra những tương đồng, khác biệt và những

đóng góp của hai nhà tư tưởng nói trên trong lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam và

Hàn Quốc.

Nhiệm vụ:

- Làm rõ bối cảnh hình thành tư tưởng chính trị của Lê Quý Đôn và Jeong Yak

Yong, trên cơ sở đó đưa ra sự so sánh yếu tố thời đại và đời sống chính trị mỗi nước.

- Phân tích một số nội dung tư tưởng chính trị chủ yếu của Lê Quý Đôn và

Jeong Yak Yong.

3

- Bước đầu so sánh đối chiếu một số nội dung cơ bản trong tư tưởng chính trị

của Lê Quý Đôn và Jeong Yak Yong, từ đó đưa ra một số nhận định về đóng góp của

tư tưởng chính trị của hai ông trong lịch sử tư tưởng chính trị mỗi quốc gia.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu trong luận án được xác định là tư tưởng chính trị của Lê

Quý Đôn và Jeong Yak Yong thể hiện trong một số tác phẩm quan trọng nhất của

Lê Quý Đôn và Jeong Yak Yong.

Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu này giới hạn trong các tư tưởng triết học chính

trị cốt lõi của hai học giả về nội trị, cụ thể là các quan điểm về thiên mệnh, vương

đạo, đức trị, vai trò của dân chúng trong hệ thống quyền lực v.v. để xem xét bản

chất của các tư tưởng đó và sự tương đồng – khác biệt giữa chúng. Nghiên cứu này

không nhằm tìm hiểu các tư tưởng kinh thế (như các phương án cải cách ruộng đất,

các lý luận về chế độ đẳng cấp, tư tưởng về quốc gia - dân tộc trong tương quan đối

ngoại, các chính sách được hai học giả đưa ra v.v.) với tư cách cụ thể hoá các quan

điểm triết học chính trị vào việc trị nước của hai học giả.

4. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý thuyết

Cơ sở lý luận của luận án này là tư tưởng Nho học. Cụ thể là những thành phần

ra đời trong quá trình phát triển của Nho học như Tính lý học Tống Nho, Nho học

Việt Nam, Tính lý học và Nho học Hàn Quốc, Nho học của Lê Quý Đôn cũng như

của Jeong Yak Yong.

4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án

Để thực hiện nghiên cứu trong luận án này, chúng tôi sẽ sử dụng những

phương pháp sau:

- Phương pháp so sánh

- Phương pháp phân tích những nghiên cứu so sánh giữa Việt Nam với các

nước khác, giữa Hàn Quốc với các nước khác.

- Để giải thích về những vấn đề được đề cập đến trong luận văn này, chúng tôi

sẽ không chỉ sử dụng phương pháp nghiên cứu của triết học mà còn tham khảo thêm

phương pháp nghiên cứu lịch sử, xã hội, văn hóa.

4

5. Đóng góp mới của luận án

Luận án có 3 đóng góp mới:

- Trình bày những sự kiện nổi bật về tình hình chính trị, xã hội và tư tưởng ở Việt

Nam thời Lê Quý Đôn và ở Hàn Quốc thời Jong Yak Yong có ảnh hưởng tới sự hình

thành tư tưởng chính trị của hai học giả trong sự so sánh bối cảnh của hai nước.

- Nêu và phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng triết học chính trị của

hai học giả

- So sánh sự tương đồng và khác biệt về nội dung tư tưởng chính trị của hai

ông, bước đầu lý giải nguyên nhân khác biệt và ý nghĩa của các tư tưởng chính trị

đó trong lịch sử tư tưởng của Việt Nam và Hàn Quốc.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu

Luận án là một trong những nghiên cứu đầu tiên hiện nay so sánh tư tưởng Nho

học của Việt Nam và Hàn Quốc thông qua tư tưởng chính trị của hai nhà Nho tiêu

biểu của hai quốc gia là Lê Quý Đôn và Jong Yak Yong. Vì thế luận án có thể dùng

làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu so sánh lĩnh vực lịch sử tư tưởng và văn hóa

giữa hai nước Việt Nam và Hàn Quốc. Ngoài ra, những kết luận rút ra từ nghiên cứu

tư tưởng chính trị của Lê Quý Đôn và Jeong Yak Yong cũng đem lại những gợi ý

quan trọng đối với việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng, đối với đời sống chính trị hiện

tại và với đời sống văn hoá và giao lưu của hai quốc gia Việt Nam và Hàn Quốc.

7. Kết cấu của luận án:

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, luận án gồm 4 chương

và 9 tiết.

5

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Để tìm hiểu về tư tưởng chính trị của Lê Quý Đôn (黎貴惇, 1726~1784) và

Jeong Yak Yong (丁若鏞, Đinh Nhược Dung, 1762~1836) - hai nhà nho, nhà chính

trị và nhà tư tưởng tiêu biểu của Việt Nam và Hàn Quốc, và để có thể so sánh được

tư tưởng của hai học giả, trước hết ta phải xem xét đến bối cảnh lịch sử và đời sống

tư tưởng, sau đó xem xét thế giới quan và nhân sinh quan của mỗi học giả, và các

khía cạnh của tư tưởng chính trị của họ. Đã có nhiều nghiên cứu về những vấn đề đó

ở mỗi quốc gia về mỗi nhà tư tưởng đều đã được tiến hành ở các mức độ khác nhau,

nhưng việc nghiên cứu Lê Quý Đôn ở Hàn Quốc cũng như nghiên cứu Jeong Yak

Yong ở Việt Nam, hoặc nghiên cứu so sánh giữa hai học giả, mới chỉ có một số

thành tựu bước đầu. Do đó, để thuận tiện, chúng tôi sẽ xem xét tình hình nghiên cứu

ở mỗi nước riêng biệt và cả một số nghiên cứu gần đây so sánh giữa hai học giả,

trong các mảng đề tài tương đương với các bước triển khai của luận án: nghiên cứu

về bối cảnh lịch sử và tư tưởng, nghiên cứu về triết học của hai học giả, nghiên cứu

về tư tưởng chính trị của hai học giả.

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về Lê Quý Đôn

Theo ý kiến của phần đông các nhà nghiên cứu Việt Nam, Lê Quý Đôn là tác

gia có số lượng tác phẩm nhiều nhất trong số các nhà tư tưởng trước thời Nguyễn.

Số lượng các tác phẩm của ông còn lại đến nay - dù trải qua thời kỳ khó khăn khi bị

nhà Nguyễn kỳ thị và thậm chí ra lệnh tiêu huỷ - vẫn còn khá nhiều. Dựa trên di sản

này, cùng với nhiều tài liệu về thời kỳ sinh thời Lê Quý Đôn, về tư tưởng Việt Nam

nói chung, v.v… các công trình nghiên cứu về Lê Quý Đôn đã được tiến hành và

cho đến nay đã có được những thành tựu đáng kể. Ở đây chúng tôi xem xét các công

trình cho thấy điều kiện và tiền đề hình thành tư tưởng của Lê Quý Đôn – gồm

các tác phẩm về thời đại Lê Quý Đôn, về Nho giáo Việt Nam nói chung và Nho

giáo thời kỳ thế kỷ 18; các những công trình nghiên cứu về bản thân Lê Quý Đôn

và tư tưởng của ông để làm nền tảng cho những tìm hiểu về tư tưởng chính trị của

Lê Quý Đôn.

Trước tiên chúng tôi xem xét mảng tài liệu về lịch sử - bối cảnh xã hội, chính

trị, kinh tế… của sinh thời Lê Quý Đôn và cả sau này, để qua đó xem xét các tiền đề

6

và điều kiện về kinh tế, xã hội, chính trị hình thành nên tư tưởng của Lê Quý Đôn.

Với mảng tài liệu này, số lượng sách đã xuất bản và các công trình nghiên cứu là

khá phong phú. Đầu tiên có thể kể đến là các bộ sách về lịch sử Việt Nam đã được

biên soạn từ thời phong kiến hay trong thời hiện đại. Đó là các bộ sách như: Khâm

định Việt sử thông giám cương mục (của Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện Sử học

dịch từ năm 1957 đến 1960, xuất bản lần đầu năm 1998); Việt Nam sử lược của Trần

Trọng Kim (xuất bản lần đầu năm 1920); Lịch sử Việt Nam của Đào Duy Anh (xuất

bản lần đầu năm 1957), Lịch sử Việt Nam (Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam biên

soạn, xuất bản lần đầu năm 1971); Đại cương lịch sử Việt Nam (Nhà xuất bản Giáo

dục ấn hành lần đầu năm 1998), Lịch sử Việt Nam tập 2 do Phan Huy Lê chủ biên,

Nxb. Giáo dục xuất bản năm 2012, v.v… Từ những bộ sử này, có thể hình dung một

cách khái quát bối cảnh lịch sử, văn hoá, kinh tế, xã hội thời kỳ Lê Quý Đôn - thể

chế vua Lê chúa Trịnh đã phát triển đến giai đoạn nào, đời sống của nhân dân ra sao,

kinh tế như thế nào, văn hoá phát triển ở mức độ nào, khoa cử hỗn loạn và thay đổi

như thế nào, v.v…

Bên cạnh các bộ sử - trình bày diễn biến lịch sử theo thời gian – có thể kể đến

những tác phẩm nghiên cứu trình bày những phương diện cụ thể của đời sống xã hội

đương thời. Trong số đó, tác phẩm nổi bật là Lịch triều hiến chương loại chí của

Phan Huy Chú (soạn xong năm 1819, biên dịch và chú giải bởi Tổ biên dịch của

Viện Sử học Việt Nam, in lần đầu năm 1960). Lịch triều hiến chương loại chí trình

bày theo hình thức „chí‟ (ghi chép), là bộ bách khoa về đời sống xã hội và tinh thần

của thời kỳ phong kiến mà đậm nét nhất là thời phong kiến mạt kỳ - sinh thời tác giả,

cũng là thời đại của Lê Quý Đôn (Phan Huy Chú có thể coi là lớp hậu học trực tiếp

ngay sau thời Lê Quý Đôn). Trong tác phẩm, Phan Huy Chú cũng có nhiều chỗ đề

cập đến Lê Quý Đôn - giới thiệu Lê Quý Đôn như một nhà bác học của thế kỷ 18,

các sách vở của ông được đề cập ở “Văn tịch chí”, các mục khác có trích dẫn sách,

thơ và các ý kiến của ông. Nhận xét chung thì có thể thấy Lịch triều cho phép hình

dung một cách toàn diện về đời sống đương thời, còn xem xét riêng trường hợp của

Lê Quý Đôn thì có thể thấy ảnh hưởng của Lê Quý Đôn – ảnh hưởng của sự nghiệp

sáng tác cũng như quan điểm, tư tưởng của ông – đối với bản thân Phan Huy Chú

cũng như đối với đời sống trí thức thời ông.

Ngoài ra, chính những tác phẩm của Lê Quý Đôn có thể coi là một nguồn tư

liệu quý về đương thời ông. Bởi Lê Quý Đôn là nhà bách khoa thư, nên ngoài những

7

sách lý luận, các sách mà ông biên soạn, sưu tầm, ghi chép có những giá trị về mặt

lịch sử rất lớn. Các sách sử từ thời sau của Việt Nam luôn luôn dựa vào nguồn tư

liệu này. Những tác phẩm trong mảng này có thể kể đến là Phủ biên tạp lục, Kiến

văn tiểu lục, và Vân đài loại ngữ. Kiến văn tiểu lục nghĩa là ghi chép tản mạn về

những điều mắt thấy tai nghe. Các thiên trong sách có thể cung cấp những tư liệu

quan trọng về các quan niệm đạo đức đương thời, về lễ nghi, chế độ của các triều đại

Việt Nam từ Lý, Trần đến Lê, về tình hình các khu vực trên đất Việt đương thời, về

một số nhân vật lịch sử, các vấn đề liên quan đến Phật giáo, v.v.. Kiến văn tiểu lục

ngoài giá trị khảo cứu, còn cho thấy một số quan điểm của Lê Quý Đôn như cách

nhìn rất mềm dẻo về đạo Phật, thể hiện xu hướng „tam giáo nhất nguyên‟ nổi bật của

thời đại ông. Phủ biên tạp lục thì được coi là tài liệu đặc biệt quan trọng trong việc

nghiên cứu về các mặt kinh tế, xã hội của xứ Đàng Trong của Việt Nam.

Mảng tài liệu tiếp theo mà chúng tôi xem xét là các tài liệu về lịch sử Nho giáo

Việt Nam, lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung và lịch sử Nho giáo của thế kỷ 18,

để qua đó có được một hình dung cụ thể về đời sống tư tưởng đương thời Lê Quý

Đôn – chính là tiền đề về lý luận hình thành nên tư tưởng của ông. Số lượng các tài

liệu ở phạm vi này có thể nói là nhiều, gồm cả sách đã xuất bản và các bài nghiên

cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành, các luận án, luận văn đã được bảo vệ, với

các nội dung cụ thể hết sức đa dạng. Ở đây chúng tôi chỉ điểm qua một số công trình

có tính khái quát về lịch sử tư tưởng Việt Nam và Nho giáo ở Việt Nam: Triết học

và tư tưởng (Trần Văn Giàu, in năm 1988); Lịch sử tư tưởng Việt Nam tập 1

(Nguyễn Tài Thư chủ biên, xuất bản năm 1993); Nho giáo tại Việt Nam (Viện Triết

học, xuất bản năm 1994); Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam (Phan Đại Doãn chủ

biên, ấn hành năm 1999); bộ sách của Nguyễn Đăng Thục Lịch sử tư tưởng Việt

Nam gồm 6 tập, trong đó có một tập riêng về tư tưởng của Lê Quý Đôn (in lần đầu

vào những năm 1970, tái bản năm 1998); Tìm hiểu tư tưởng chính trị Nho giáo Việt

Nam từ Lê Thánh Tông đến Minh Mệnh (Nguyễn Hoài Văn chủ biên, xuất bản năm

2002), Nho giáo ở Việt Nam (Viện nghiên cứu Hán Nôm và Viện Harvard –

Yenching chủ biên, xuất bản năm 2006), Khái lược lịch sử tư tưởng triết học Việt

Nam (Nguyễn Tài Đông chủ biên, xuất bản năm 2016) v.v.. Các công trình này đem

lại một cái nhìn tương đối tổng quát về Nho giáo tại Việt Nam, lịch sử hình thành,

các giai đoạn phát triển và đặc điểm của mỗi giai đoạn, để từ đó ta có thể hình dung

được về đời sống tinh thần của một thời kỳ cụ thể là thời kỳ Lê Quý Đôn.

8

Lê Quý Đôn sống và hoạt động trong một thời kỳ lịch sử phức tạp, thời kỳ Việt

Nam bị chia cắt với nhiều thế lực phong kiến cạnh tranh lẫn nhau, kinh tế có mầm

mống phát triển nhưng bị nhân dân bị bóc lột rất nặng nề, khởi nghĩa nông dân nổ ra

ở nhiều nơi, khoa cử tiêu cực, nhưng đời sống học thuật lại có phần sôi động hơn

trước. Lê Quý Đôn xuất thân khoa bảng, ban đầu làm quan trong triều đình, sau

được biệt phái sang phủ Chúa, giữ nhiều chức quan ở cả triều đình và phủ Chúa,

chịu nhiều thăng giáng, nhiều người kính trọng mà cũng nhiều người ghét bỏ. Các

sách vở trước tác của ông đều trong thời kỳ đương chức, đó cũng là một điểm cần

lưu ý khi xem xét các quan điểm của ông.

Ngay khi sinh thời Lê Quý Đôn, giới Nho sĩ và quan lại đã có nhiều đánh giá

trái ngược về ông. Sau khi Lê Quý Đôn mất, Việt Nam trải qua thời kỳ biến động –

các tập đoàn phong kiến khủng hoảng và sụp đổ, nhà Tây Sơn dẹp chúa Nguyễn ở

phía Nam, dẹp họ Trịnh ở phía Bắc và sau đó đại thắng quân Thanh, lên nắm quyền

thay nhà Lê. Sau đó ít lâu Tây Sơn lại bị đánh đổ, nhà Nguyễn thành lập. Vương

triều Nguyễn xuất phát từ dòng dõi chúa Nguyễn ở thời Lê Quý Đôn, là thế lực

phong kiến cai trị xứ Đàng Trong, đối lập với quyền lực của chúa Trịnh ở xứ Đàng

Ngoài. Lê Quý Đôn là sủng thần của chúa Trịnh, đương nhiên không có được thiện

cảm từ thế lực nhà Nguyễn. Sách Phủ biên tạp lục mà Lê Quý Đôn soạn khi ông là

trấn thủ đất Quảng Nam có những lời bình tiêu cực về chúa Nguyễn cũng như cách

cai trị của nhà Nguyễn ở Đàng Trong. Vì lý đó, đến thời vương triều Nguyễn, sách

vở của Lê Quý Đôn không được khắc in. Ở thời Minh Mệnh (năm 1838) còn có một

đạo dụ tiêu huỷ Bản kỷ tục biên là sách Lê Quý Đôn cùng các sử quan nhà Lê soạn,

lý do là sách này chỉ được chép để tôn họ Trịnh dìm vua Lê, “trái ngược như mũ

giày điên đảo”, “làm hãm đắm lòng người”. Bộ sử lớn nhất do sử thần nhà Nguyễn

soạn, bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, có những lời hết sức nặng nề về

nhân cách của Lê Quý Đôn.

Cái nhìn chính thống như vậy về Lê Quý Đôn không thể không để lại hậu quả

trong việc đánh giá nhân vật lịch sử này ở những thời kỳ sau. Đến tận những năm

1960, một số sách vở vẫn đề cập đến Lê Quý Đôn như là „tay sai của họ Trịnh‟. Tuy

nhiên, có một sự thật là dù nhà Nguyễn áp đặt một cách đánh giá như vậy đối với Lê

Quý Đôn, thì trong giới nho sĩ cũng như trong dư luận rộng rãi, những lời bình tốt

đẹp về ông vẫn không thay đổi. Đầu thế kỷ 20, ở Việt Nam đã xuất hiện những công

trình tìm cách chỉnh sửa những nhận định sai lầm về Lê Quý Đôn trong Cương mục.

9

Từ khoảng thời gian đầu thế kỷ 20 đến những năm 1950, các tác phẩm có đề cập đến

ông hầu hết đều nhận xét về Lê Quý Đôn với những lời tích cực. Ví dụ, trong cuốn

Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm (in lần đầu tiên năm 1943) có đánh

giá về Lê Quý Đôn: “Lê Quý Đôn thật là một nhà bác học về đời Lê mạt; một tay

ông đã biên tập, trứ thuật rất nhiều sách. Tuy tác phẩm của ông nay đã thất lạc mất ít

nhiều, nhưng những bộ còn lưu lại cũng là một cái kho tài liệu để ta khảo cứu về lịch

sử, địa dư và văn hoá của nước ta.” [53; tr.298]. Người ta vẫn dựa vào sử Nguyễn

trong đó có ghi chép những sự kiện tác động xấu đến danh tiếng của Lê Quý Đôn,

nhưng không phải vì thế mà danh tiếng của ông bị mai một đi. Sách vở của ông tuy

không được khắc in nhưng vẫn được lưu truyền; thậm chí, trên thực tế, nhà Nguyễn

khi soạn các bộ sách lịch sử và địa dư cũng đã dựa ít nhiều vào sách của ông, coi đó

như nguồn tư liệu không thể bỏ qua được. Cho đến nay, những lời hạ thấp phẩm chất

của Lê Quý Đôn hầu như không còn trong các công trình nghiên cứu và cả trong các

sách vở viết cho đối tượng là dân chúng rộng rãi (những sách giới thiệu gương danh

nhân, phổ biến các thông tin về cuộc đời và sự nghiệp của những bậc anh tài, v.v.).

Tuy vậy, như chúng tôi nhận thấy, từ trước đến nay những lời đánh giá về Lê

Quý Đôn hầu như chỉ dừng lại ở việc xem xét về nhân cách và những đóng góp của

ông trên các phương diện biên soạn, sưu tầm tài liệu; về mặt tư tưởng thì thường là

quan tâm đến những khía cạnh nhà bác học, nhà thư mục học, nhà phê bình văn học,

nhà sử học v.v. của ông, khía cạnh nhà tư tưởng mới được quan tâm một cách tản

mạn và số lượng tài liệu nghiên cứu tư tưởng Lê Quý Đôn trên thực tế chỉ chiếm

một tỷ lệ không lớn trong tổng số các công trình nghiên cứu về ông. Điều này được

thấy rõ qua một vài biểu hiện sau. Một mặt, tác phẩm của Lê Quý Đôn đã được dịch

và phát hành rất sớm: các sách Vân đài loại ngữ, Quần thư khảo biện được dịch và

xuất bản năm 1962, Kiến văn tiểu lục năm 1963, Phủ biên tạp lục năm 1964. Các bài

viết về Lê Quý Đôn trên tạp chí chuyên ngành cũng xuất hiện từ thời gian đó. Có thể

kể đến những bài như: “Vài nét trong quan điểm văn học của Lê Quý Đôn” của Trần

Thanh Mại, tạp chí Nghiên cứu văn học, số 4 năm 1960; “Vài nét vê Lê Quý Đôn

nhà bác học lớn của Việt Nam dưới thời phong kiến” của Văn Tân, tạp chí Nghiên

cứu lịch sử, số 49, năm 1963; “Quan điểm lịch sử của Lê Quý Đôn trong Quần thư

khảo biện” của Hà Thúc Minh, Thông báo triết học, số 11 năm 1968; một số bài viết

của Nguyễn Tài Thư: “Mấy tư tưởng cơ bản của Lê Quý Đôn trong Quần thư khảo

biện” trên Thông báo triết học, số 2, năm 1971, “Vài nét về đạo lý làm người của Lê

10

Quý Đôn” trên tạp chí Triết học, số 8, năm 1975, “Lê Quý Đôn nhà tư tưởng Việt

Nam thế kỷ XVIII” trên tạp chí Triết học, số 3, năm 1976; bài viết của Phạm Tú

Châu “Tinh thần thực tế và ý thức dân tộc của Lê Quý Đôn qua Kiến văn tiểu lục”

và bài viết của Cao Xuân Huy “Lê Quý Đôn và học thuyết lý khí”, trong tạp chí Văn

học, số 6, năm 1976; “Lê Quý Đôn qua nhận xét của người xưa” của Trần Thị Băng

Thanh, tạp chí Văn học, số 1, năm 1977, v.v.. Mặt khác, các nhà nghiên cứu chủ yếu

tìm hiểu các khía cạnh văn học, Hán học, thư mục học, sử học v.v. của Lê Quý Đôn,

số lượng các nghiên cứu đề cập đến tư tưởng triết học và tư tưởng chính trị của ông

chiếm tỉ trọng tương đối khiêm tốn.

Trong khoảng thời gian 40 năm trở lại đây, việc nghiên cứu sâu hơn về tư

tưởng của Lê Quý Đôn đã được đẩy mạnh. Có thể thấy điều này thông qua sự xuất

hiện nhiều hơn của các công trình lấy tư tưởng của Lê Quý Đôn làm đối tượng

nghiên cứu. Những sách chỉ lấy riêng tư tưởng Lê Quý Đôn (tư tưởng triết học chứ

không phải các vấn đề lý luận khác) làm đối tượng nghiên cứu có thể kể đến: Lê Quý

Đôn nhà bác học Việt Nam thế kỷ XVIII do Ty văn hoá thông tin tỉnh Thái Bình xuất

bản năm 1979; tác phẩm Lịch sử tư tưởng Việt Nam – tư tưởng tổng hợp của Lê Quý

Đôn của tác giả Nguyễn Đăng Thục (xuất bản lần đầu tại Sài Gòn năm 1974, tái bản

năm 1998), Lê Quý Đôn nhà tư tưởng Việt Nam thế kỷ XVIII của Hà Thúc Minh

(xuất bản năm 1998). Sách Lê Quý Đôn nhà bác học Việt Nam thế kỷ XVIII vốn là

kỷ yếu của hội thảo “Những cống hiến khoa học của Lê Quý Đôn” tổ chức nhằm kỷ

niệm 250 năm ngày sinh của ông. Như tên gọi, sách không chỉ xem xét Lê Quý Đôn

với tư cách nhà tư tưởng, mà còn có các bài viết về Lê Quý Đôn với tư cách nhà bác

học, nhà ngôn ngữ học, nhà sử học, nhà thư mục học v.v.. Trong số các bài nghiên

cứu về tư tưởng của Lê Quý Đôn được in trong sách đó, có thể kể đến: “Để tiến tới

một cái nhìn đúng đắn về nhân cách chính trị của Lê Quý Đôn” của Hoàng Lê, bài

viết này xem xét chủ yếu các sự kiện lịch sử trong các văn bản chứ không xem xét

tác phẩm của Lê Quý Đôn, nhưng đưa ra các dẫn chứng để phản bác cách đánh giá

tiêu cực về Lê Quý Đôn vốn chịu ảnh hưởng từ Việt sử thông giám cương mục.

thông qua đó, tác giả cũng trình bày nhiều thông tin và suy nghĩ về đường lối chính

trị, các quyết sách chính trị thực tế và tư duy cải cách của Lê Quý Đôn. Bài viết “Lê

Quý Đôn trong lĩnh vực tư tưởng của dân tộc thế kỷ XVIII” của Nguyễn Tài Thư,

trong bài viết này tác giả cho rằng, không như nhiều người (lúc đó) vẫn suy nghĩ, Lê

Quý Đôn không chỉ là nhà nghiên cứu mà còn là nhà tư tưởng, các tư tưởng của ông

11

được trình bày rất rõ ràng và nhất quán trong nhiều trước tác của ông. Tác giả cho

rằng tư tưởng của Lê Quý Đôn tuy có hạn chế về mặt lịch sử, nhưng cũng có rất

nhiều đóng góp mới mẻ cho lịch sử tư tưởng Việt Nam đương thời. Trên thực tế, GS.

Nguyễn Tài Thư cũng là người có rất nhiều nghiên cứu về Lê Quý Đôn cho đến tận

mãi sau này, các nghiên cứu được đăng tải trong các sách về lịch sử tư tưởng Việt

Nam và trong tạp chí, đặc biệt là tạp chí Triết học của viện Triết học, Viện Khoa học

xã hội Việt Nam. Các nghiên cứu của GS. Nguyễn Tài Thư về Lê Quý Đôn là nguồn

tư liệu rất quan trọng cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài này.

Ngoài các bài nghiên cứu, sách Lê Quý Đôn nhà bác học Việt Nam thế kỷ XVIII

còn cung cấp các thông tin quý giá cho người đọc về Lê Quý Đôn, đó là Tiểu sử Lê

Quý Đôn và một thư mục về Lê Quý Đôn. “Tiểu sử Lê Quý Đôn” được soạn tương

đối kỹ, với rất nhiều thông tin phong phú về cuộc đời và tác phẩm của ông, tiểu sử

này là do GS. Cao Xuân Huy biên soạn, được in trong sách Vân đài loại ngữ (bản

dịch, xuất bản năm 1962). “Thư mục Lê Quý Đôn” do Phạm Hồng Toàn biên soạn,

gồm các tài liệu nghiên cứu về Lê Quý Đôn ngay từ thế kỷ 19, trải qua các thăng

trầm trong đánh giá về Lê Quý Đôn, cho đến thời điểm 1979. Trong đó có thể thấy

các tài liệu „nghiên cứu về tư tưởng học thuật của Lê Quý Đôn‟ được liệt kê chỉ có

10 trong tổng số hơn 130 tài liệu (chưa kể một số bài nghiên cứu về tác phẩm của Lê

Quý Đôn được liệt kê trong phần sau đó), tức là chiếm một tỉ lệ rất khiêm tốn. Dù

sao, Tiểu sử và thư mục này, cùng toàn bộ công trình Lê Quý Đôn nhà bác học thế

kỷ XVIII đã đem lại cho chúng tôi rất nhiều tri thức trong quá trình triển khai luận án.

Trong Lịch sử tư tưởng Việt Nam – tư tưởng tổng hợp của Lê Quý Đôn của

Nguyễn Đăng Thục, tác giả trình bày ba vấn đề chính là quan điểm siêu hình học,

quan điểm nhận thức và các quan điểm về chính trị của Lê Quý Đôn. Trước tiên, tác

giả đưa ra nhận xét rằng Lê Quý Đôn đứng trước bối cảnh Nho phong đổ nát đương

thời đã đưa ra lời phê phán và có quan điểm hướng tới Tam giáo nhất nguyên, phục

hồi xu hướng tư tưởng vốn là truyền thống của dân tộc. Về vũ trụ quan của Lê Quý

Đôn, tác giả nhấn mạnh các điểm: Lê Quý Đôn đồng nhất „dịch‟ với „thời‟, sự hoà

điệu tam tài, các quan điểm mới mẻ về lý, khí và mối quan hệ giữa lý và khí. Về

nhận thức luận, tác giả cho rằng Lê Quý Đôn coi „cách vật trí tri‟ tương đương với

„chính tâm‟ - tức là khác với quan điểm chí vật của Chu Hy, chính tâm là hư tâm,

thực hiện cái tâm „chí thành‟ mà Trung Dung nói đến. Về quan điểm chính trị, tác

giả nhận xét Lê Quý Đôn trung thành với tinh thần Nho giáo khi coi chính trị là

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!