Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Lịch sử và giai đoạn đầu của sự phát triển quang hợp
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Lịch sử và giai đoạn đầu của sự phát triển quang hợp
Van Helmont và cây liễu
1640, một bác sĩ người Flanders (Flemish bắt nguồn từ tên của hạt (tỉnh) Flanders. Hạt
Flanders (tiếng Hà lan: Graafschap Vlaanderen) là một trong những lãnh thổ cấu thành
“những vùng đất thấp”. Lãnh địa tồn tại từ 862 đến 1795. Nó đã là một trong những thái
ấp trường kỳ nguyên bản (của) Nước Pháp và trong những thế kỷ là những một trong số
nhiều vùng quan trọng nhất trong Châu Âu) Jan Baptista van Helmont (1577 – 1644) có thí
nghiệm:
chậu đất, nặng 200 lbs Chậu đất mất 2 ounces, nhưng cây và lá cây,
nặng 169 lbs.
Ông kết luận rằng cây tăng trọng lượng từ nước mà ông đã đưa cho cây, hơn là từ “mùn”
của đất, mà quan điểm xưa bắt nguồn từ Aristotle. Kết luận của Van Helmont chỉ đúng một
phần, vì đa số cây bắt nguồn từ cả nước và carbon dioxide. Tuy nhiên, sự nhấn mạnh của
Van Helmont trên việc phân tích trọng lượng là bước tiến đáng kể trong thời kỳ đó
Joseph Priestley và sự khám phá khí oxy.
Joseph Priestley (1733 – 1804) tạo nên nhiều khám phá quan trọng, đặc biệt trong mối liên
hệ đến tính chất và sự vận chuyển của chất khí. Một trong những kết quả đầu tiên là sự
phát minh của nước khoáng seltzer, mà Hội Hoàng gia Anh (Hội Hoàng gia (Royal
Society) một hội được Charles II thành lập vào năm 1907 với mục đích theo đuổi và phát
triển lĩnh vực khoa học vật lý) tặng huy chương vàng.
Chúng ta nhớ đến Priestley đặc biệt về khám phá của ông về khí oxy, đầu tiên trong một
cách gián tiếp, bởi việc theo dõi hoạt động của cây trong 1771, và rồi trong dạng nguyên
chất trong 1774 bằng cách nung nóng thủy ngân oxide và thu thập khí tạo ra. Ông miêu tả
thí nghiệm năm 1771 theo cách này:
Việc tìm ra rằng nến có thể cháy tốt trong khí mà cây đã trồng trong một khoảng thời gian
dài… Tôi nghĩ có khả năng là cây cối có thể hồi lại khí mà bị tổn thương do sự cháy của
nến. Do vậy, vào ngày 17 tháng 8, 1771, tôi đặt một cành bạc hà non vào trong một lượng
không khí mà cây nến sáp đã cháy hết và tìm ra rằng vào ngày 27 cùng tháng một cây nến
khác cháy hoàn hảo trong nó.
Sự giải thích của Priestley về việc này và những thí nghiệm liên quan (hình 3.1) rằng cây
nến (hoặc chuột) sản xuất một lượng lớn nhiên liệu, mà là nền tảng cho việc giải thích tất
cả các quá trình hóa học lúc bấy giờ. Người ta nói nhiên liệu (yếu tố cháy), mà bắt nguồn
từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “tạo ra lửa” (khích lửa), là một chất có thể cháy được mà được
có bởi tất cả các vật chất mà có thể đốt cháy. Nhờ vào sự cháy, hay sự hô hấp, nhiên liệu
được thả và trong không khí và làm bẩn nó. Thực vật có khả năng độc nhất để bắt lại nhiên
liệu mà đã được thả bởi sự đốt cháy. Trong những thí nghiệm sau này, Priestley có thể
chuẩn bị và phân tích trong vài chi tiết số lượng đáng kể khí oxi nguyên chất, mà ông gọi
là “khí sống”.
Tuy nhiên ông đã giải thích tất cả các sự quan sát của mình trong giới hạn của thuyết nhiên
tố (Học thuyết cho rằng tất cả những vật chất có thể cháy được đều chứa phlogiston, một
dạng vật chất không có màu, mùi, vị, hay khối lượng, và được giải phóng trong sự cháy.
5 năm