Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Hiệp Hòa 1975-2015
PREMIUM
Số trang
287
Kích thước
6.7 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1159

Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Hiệp Hòa 1975-2015

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

&

LỊCH sử

ĐẢNG Bộ vn NHÂN DÂN

xÃHiệp Hòn

GIAI ĐOẠN 1975 - 2015

BẢN ĐỒ ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH

XẢ HIỆP HÒA, HUYỆN CÀU NGANG, TỈNH TRÀ VINH

LỜI GIỚI THIỆU

T

ổng kết, biên soạn, xuất bản lịch sử đấu tranh cách mạng qua

các thời kỳ là một chủ trương xuyên suốt của Đảng Cộng

sản Việt Nam. Thực hiện chủ trương đó và sự chỉ đạo của Tỉnh ủy

Trà Vinh, đến năm 2013, Câu Ngang đã cơ bản hoàn thành công

tác biên soạn, xuất bản lịch sử đấu tranh cách mạng của huyện,

lực lượng vũ trang Nhân dân huyện, các xã - thị trấn giai đoạn

1930 - 1975. Ngay sau đó, Ban Thường vụ Huyộn ủy chỉ đạc

triển khai viộc sưu tầm, biên soạn các tập lịch sử địa phương

trong thời kỳ xây dựng và bảo vộ Tồ quốc. Năm 2015, quyến

“Lịch sử Đảng bộ và Nhân dân huyện Câu Ngang, giai đoạn

1975 - 2010” đã được nghiệm thu và xuất bản, tạo điều kiện

thuận lợi cho các công trình nghiên cứu, biên soạn lịch sử các

ngành, các xã - thị trấn.

Thực hiện sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Huyện ủy

Câu Ngang, Đảng ủy - ủ y ban Nhân dân xã Hiệp Hòa đã tích cực

trong việc triển khai sun tầm, hội thảo tư liệu, tổ chức biên soạn,

hội thảo nghiệm thu, làm thủ tục xuất bản tập sách “Lịch sử Đảng

bộ và Nhân dân xã Hiệp Hòa, giai đoạn 1975 - 2015”. Nhìn

chung, lập sách đã phản ánh một cách khá toàn diện, trung thực

một chặng đường gian khổ, khó khăn nhung cũng rất vẻ vang của

Đảng bộ, Nhân dân địa phương trong triển khai thực hiện hai

nhiệin vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dưới sự lãnh

Đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà trực tiếp là Ban Chấp hành

Đảng bộ huyện cầu Ngang. Trong suốt 40 năm, Đảng bộ và Nhân

dân Hiệp Hòa đà không ngùng phấn đấu, vượt qua bao thách

thức, khó khăn, khai thác tốt nhất các tiềm năng, thế mạnh, phát

huy triệt đô nguôn sức mạnh nội sinh. Song song với việc tranh

thủ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực mà cấp trẽn chi viện, hỗ

trợ, trong đó, nổi bật nhất là Đảng bộ, chính quyền Hiệp Hòa đã

chú ý đúng mức việc tăng cường, củng cố và phát huy hiệu quả

sức mạnh tổng họp của khối đại đoàn kết dân tộc, tổ chức lốt các

phong trào thi đua yêu nước trong lao dộng sản xuất, công lác và

học tập, giành nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực

chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng cũng như

cồng tác xây dựng Đảng, kiện toàn hệ thống chính trị tại địa

phưong. Bên cạnh nhũng thành tựu mang tính cơ bản, tập sách

này cũng thẳng thắn nhìn nhận nhũng hạn chế, yếu kém cùng

nhũng nguyên nhân chủ quan, khách quan dẫn tới thành tựu và

hạn chế. Trên cơ sở đó, rút ra nhũng bài học kinh nghiệm tù* thực

tiễn và lý luận nhằm nâng cao năng lực tư duy, năng lực vận dụng

sáng tạo sát họp vào điều kiện cụ thể trên từng lĩnh vực công tác,

tùng vấn đề cụ thể ở tùng thời điểm lịch sử của địa phương trong

hiện tại và tương lai. Chính từ nhận thức đúng đắn về lịch sử, trân

trọng lịch sử, kế thừa lịch sử sẽ tạo nên sức mạnh văn hóa tinh

thần cho Đảng bộ và Nhân dân Hiệp Hòa trong việc tăng cường

tình đoàn kết thống nhất trong nội bộ đảng bộ, tăng cường mối

quan hệ máu thịt giừa đảng bộ với Nhân dân, quyết tâm hoàn

thành thắng lợi sự nghiệp xây dựng quê hương theo mục tiêu

“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công băng, vân minh

Trong quá trình sưu tầm, biên soạn tập sách "Lịch sử Đàng

bộ và Nhân dân xã Hiệp Hòa, gioi đoạn ỉ 975 - 20ì 5 ”, Ban Chỉ

đạo Biên soạn lịch sử xã Hiộp Hòa xin chân thành ghi nhận sự

giúp đỡ tận tình của Phòng Lịch sừ - Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy

Trà Vinh, đồng chí Trần Dũng, Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ

thuật Trà Vinh, lãnh đạo Huyện ủy, ủ y ban nhân dân huyện, các

đồng chí trong Ban Chỉ đạo Biên soạn lịch sử huyện, Ban Tuycn

giáo Huyện ủy và bộ phận lưu trữ thuộc Văn phòng Huyện ủy.

Đồng thời, Ban Chỉ đạo và Ban Biên tập cũng trân trọng tiếp thu

các ý kiến đóng góp quí báu của các đồng chí cách mạng lão

thành, cán bộ hưu trí, cán bộ chủ chốt, nhân chứng lịch sử qua

các thời kỳ hoạt động tại Hiệp Hòa, các đồng chí cấp ủy viên

đảng bộ xã từ khóa I đến khóa XIV và kết quả của ba cuộc hội

thảo. Mặc dù Ban Chỉ đạo, những người biên soạn và Ban Biên

tập đã có nhiều cố gẳng trong việc sưu tầm, nghiên cứu, biên

soạn, biên tập nhưng do những khó khăn chủ quan và khách

quan, tập sách khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Ban Chỉ

đạo rất mong tiếp tục nhận được những ý kiến đóng góp của các

đồng chí cách mạng lão thành, cán bộ hưu trí, cán bộ chủ chốt

qua các thời kỳ, của cán bộ, đảng viên và Nhân dân trong xã cũng

như của đông đảo bạn đọc gần xa để chúng tôi có điều kiện bổ

sung, hoàn chỉnh trong những lần tái bản sau.

Tặp sách 1 ‘Lịch sử Đảng bộ và Nhân dân xâ Hiệp Hòa, giai

đoạn 1975 - 2015 ” được xuất bản là công trình có ý nghĩa của

Đảng bộ và Nhân dân xã Hiệp Hòa chào mừng kỷ niệm 87 năm

ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 -

03/02/2017).

Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!

DƯƠNGNGỌCTỨ

Huyện ủy viên, Bỉ thư Đảng ủy Hiệp Hòa

PIỈẢN THỬ NHẤT

XÂY DựNG VÀ KIỆN TOÀN HỆ THÓNG CHÍNH TRỊ;

THỤC HIỆN CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ

BƯỚC ĐẦU XÂY DựNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

TẠI HIỆP HÒA (1975 - 1983)

C H Ư Ơ N G /

KHÁI QUÁT ĐIÊU KIỆN TỤ NHIÊN, XÃ HỘI

VÀ BỐI CẢNH XÃ HỘI HIỆP HÒA

SAU NGÀY GIẢI PHÓNG MIÊN NAM 30/4/1975

I. KHÁI QUÁT ĐIÈU KIỆN TỤ NHIÊN, XÃ HỘI

XÃ HIỆP HÒA

7. Khái quát điều kiện tự nhiên:

Sau ngày giải phóng 30/4/1975, Hiệp Hòa là một xã nông

thôn có đông đồng bào Khmer, là địa bàn cửa ngõ của huyện cầu

Ngang giáp ranh với huyện Châu Thành. Trung tâm của xã Hiệp

Hòa (ấp Hòa Lục) cách thị trấn cầu Ngang 6 km về hướng Tây

và cách thành phố Trà Vinh 18 km về hướng Đông Nam. Ranh

giới tứ cận của xã Hiệp Hòa như sau: Bắc giáp xã Phước Hảo

(huyện Châu Thành); Nam giáp xã Nhị Trường; Đông giáp các

xã Vinh Kim, Mỹ Hòa (huyện c ầ u Ngang); Tây giáp xã Đa Lộc

(huyện Châu Thành). Thời điểm này, xã Hiệp Hòa cỏ 10 ấp là

Trà Cuôn, ấp Giữa, Kim Hòa, Hòa Lục, Sóc Xoài, Sóc Chuối,

Tri Liêm, Bình Tân, Phiêu và Ba So. Các thiết chế chính trị,

hành chính, kinh te, văn hóa của xà tập trung trên địa bàn hai ấp

Kim Hòa và Hòa Lục.

Địa hình nổi bật và chi phối nhiều đến tiến trình hình thành

khu dân cư, phát triển kinh tế - xã hội của Hiệp Hòa là con giông

đất cát, chạy dọc theo trục Bắc - Nam của xã, thường gọi là

Giồng Lớn hay giồng Bàu Cát. Ngoài ra, trên địa bàn Hiệp Hòa

còn có hai con giồng nhỏ hon là Giồng Phiêu ở phía Tây và giồng

Bình Tân ở phía Đông. Những con giồng đất cát này có cao trình

trong khoảng 0,8 -1,5 m so với mặt biên, khô ráo, dễ đi lại nên từ

lâu là những tuyến quần cư chính (chiếm hơn 70% dân số) của

cộng đồng dân cư trong xã. Đầu thế kỷ XX, trên cơ sở những

tuyến đường nội bộ xóm làng đã hình thành trước đó, thực dân

Pháp qui hoạch và xây dựng tuyến hương lộ 17, theo hướng Bắc

- Nam, nối liền tỉnh lộ 35 (nay là quốc lộ 53) đoạn Ngã ba

Trà Cuôn qua các xã Hiệp Hòa (nay là Kim Hòa, Hiệp Hòa),

Nhị Trường (nay là Nhị Trường, Trường Thọ); hương lộ 18, theo

hướng Đông - Tây, nối hương lộ 17 (tại Tri Liêm) qua Bình Tân

ra tỉnh lộ 35 (nay là quốc lộ 53) tại huyện lỵ cầu Ngang. Trong

suốt tiến trình từ thế kỷ XX đến thập niên 1980, hương lộ 17 và

hương lộ 18 là tuyến giao thông huyết mạch, chi phối to lớn đến

sinh hoạt, sản xuất của Nhân dân cũng như sự phát triển kinh tế -

xã hội và diện mạo nông thôn Hiệp Hòa.

Giồng Lớn và hương lộ 17 phân chia cánh đồng mênh

mông của Hiộp Hòa thành hai cánh đồng chính là Đồng Đông

(còn gọi là Đồng Trước) có diện tích gần 1.800 ha và Đồng Tây

(còn gọi là Đồng Sau), diện tích xấp xỉ 1.300 ha.

Nhìn chung, nhũng cánh đồng Hiệp Hòa nằm xa sông lớn

(rìa phía đông của cánh Đồng Đồng là gần sồng c ổ Chiên nhất

nhưng cũng cách đến hơn 10 km). Toàn địa bàn xã chỉ có duy

nhất con rạch tự nhiên là rạch Măng Dục (tức rạch Bình Tân), là

một chi lưu của rạch Ông Ồc, nhưng cũng chỉ đi qua một phần ấp

Bình Tân. Do vậy, từ xa xưa, những cánh đồng Hiệp Hòa, tuy

rộng lớn nhưng thiếu nước ngọt nghiêm trọng. Trong nhừng

tháng mùa khô (từ tháng 12 đến tháng 5 dương lịch năm sau),

cánh đồng Đông bị nhiễm mặn còn cánh đồng Tây bị khô trắng,

ảnh hưởng nặng nề đến năng suất, sản lượng nông nghiệp và đời

sống người dân. Trước tình trạng đó, vào cuối thế ký XIX, thực

dân Pháp cho đào con kinh Dây Thép (còn gọi là kinh Bàu Cát),

nối từ kinh Rạch Lọp và sông Trà Vinh tại Ngã ba Giồng Lức ở

hướng Tây bắc và sông Chà Và ỏ' hướng Đông nam, vừa đóng vai

trò thủy lợi tạo nguồn nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt vừa

hình thành tuyến giao thông đường thủy quan trọng nối huyện lỵ

Cầu Ngang với tỉnh lỵ Trà Vinh (bên sông Tiền) và với huyện lỵ

Tiểu Cần, thị trấn c ầu Quan (bên sông Hậu).

2. Khái quát điều kiện xã hội:

Thời điểm năm 1975, dân số xã Hiệp Hòa là 11.838 người,

trên diện tích tự nhiên là 4.512 ha, mật độ dân số là 260

người/km2. So với các xà trong huyện c ầu Ngang, Hiệp Hòa là

xã có diện tích khá lớn, dân số đồng và mật độ dân số thuộc loại

cao. Trong số hơn 11.000 người dân, đồng bào dân tộc Khmer

chiếm tỷ lộ 64%, còn lại là gần 35% là dân tộc Kinh và gàn 1%

người là dân tộc Hoa. Người Khmer Hiệp Hòa cư trú chủ yếu

trên những con giồng đất cát, thành các phum sóc xen lẫn với các

xóm làng của người Kinh. Trong khi đó, bộ phận người Hoa tập

trung ở chợ Trà Cuôn, chợ Bình Tân và chợ Bàu Cát cho thuận

tiện việc mua bán.

Tuyệt đại bộ phận cư dân Hiệp Hòa đều chịu ảnh hưởng

đạo Phật, trong đó có hơn 60% là tín đồ Phật giáo. Riêng trong

đồng bào Khmer, gần như 100% là tín đồ Phật giáo hệ phái

Nam tông.

Xuất phát từ điều kiện tự nhiên (địa bàn cửa ngõ các xã

tăvùng ruột”, đất rộng, nhiều giồng cát...), điều kiện xã hội (có

đông đồng bào dân tộc, tôn giáo...) đặc thù, trong suốt giai đoạn

xâm lược nước ta cả thực dân Pháp lẫn đế quốc Mỹ đều xem

Hiệp Hòa là trọng điểm triển khai kế hoạch chiếm đóng, kiểm

soát, bình định, gom quân bát lính, chiếm đoạt của cải, biến địa

bàn này thành nơi cung cấp nhân lực, vật lực để chúng tiếp tục

triển khai âm mun chiếm đóng, bình định các xã khác trong huyện

Cầu Ngang. Chúng thi hành ờ đây nhiều âm mưu, thủ đoạn thâm

độc vừa lừa mị mua chuộc, vừa kích động chia rẽ, lại thẳng tay đàn

áp, khủng bố vừa đồng hóa dân tộc. Hiệp Hòa trở thành vùng kềm

chặt của địch trong suốt hai cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.

Trong khi đó, về phía cách mạng, Tỉnh ủy Trà Vinh và Huyện ủy

Cầu Ngang luôn dành cho Hiệp Hòa sự quan tâm trong việc chỉ

đạo cũng như tăng cường, chi viện về nhân lực, giúp địa phương

vượt qua nhũng giai đoạn khó khăn, kiên cường bám trụ, bám dân,

tổ chức và lãnh đạo các phong trào cách mạng quần chúng, vạch

trần các âm mưu, thủ đoạn đen tối của kẻ thù, giữ vũng và tăng

cường khối đại đoàn kết dân tộc, vươn lên chiến thăng kẻ thù.

Tồng két hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc

Mỹ (1945 - 1975), xã Hiộp Hòa có 150 liệt sĩ, 48 thương binh, được

Nhà nước tuyên dương danh hiệu vẻ vang cho 6 bà mẹ Việt Nam

anh hùng, tặng thưởng 205 Huân, Huy chương và 86 bằng khen, giấy

khen các loại. Nhiều người con ưu tú của quẽ hương Hiệp Hòa, nhiều

đảng viên ưu tú của Chi bộ Hiệp Hòa trưởng thành là cán bộ lãnh đạo,

sĩ quan chỉ huy các cấp như Nguyễn Vãn Ba (Ba Phinh) - Tỉnh ủy

vicn, Đại tá Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Bộ đội biên phòng tình Trà

Vĩnh; Phan Thành Công (Sáu Thợ) - Phó Bí thư Thường ư*ực Thị ủy

Trà Vinh; Phan Thanh Trường (Cò Ký) - ủ y viên Ban Thường vụ

Huyện ủy cầu Ngang...

II. BỎI CẢNH XÃ HỘI HIỆP HÒA SAU NGÀY GIẢI

PHÓNG MIÈN NAM 30/4/1975

Chiến thắng ngày 30/4/1975, chi bộ, lực lượng vũ trang

nhân dần và Nhân dân xã Hiộp Hòa đã cùng với cả tỉnh, cả miên

Nam và cả nước kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ

cứu nước, hoàn thành giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân

dân, tiến lẽn thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững

chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đi vào thời kỳ xây dựng hòa bình, Hiệp Hòa có được

nhừng thuận lợi cơ bản xuất phát từ những điều kiện đặc thù về tự

nhicn, xã hội cũng như các tiềm năng, thế mạnh của địa phương.

Thuận lợi cơ bản nhất là tổ chức cơ sở Đảng Hiệp Hòa hình thành

trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, được tôi ròn qua

lửa đạn và các điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh, ngày càng

trưởng thành, tích lũy được nhiêu kinh nghiệm tô chức và lãnh

đạo các phong trào cách mạng quần chúng địa phương, được

quần chúng nhân dân thương yêu, tin tưởng, xứng đáng với vai

trò hạt nhân tập họp, tô chức, lãnh đạo địa phương đi vào giai

đoạn cách mạng mới; hệ thống chính trị nhân dân được xây

dựng, từng bước kiện toàn từ xã xuống đến các ấp, khu dân cư.

Thuận lợi cơ bản to 10*11 nữa là với Chiến thắng 30/4/1975, quê

hương Hiộp Hòa được hoàn toàn giải phóng, Nhân dân I liệp Hòa

được sông trong cảnh hòa bình, độc lập, tự do, dân chủ... thoát

khỏi cảnh đời nô lộ hàng trăm năm ròng rã. về cơ sở vật chất, tuy

cơ bản vẫn còn rât yêu kém nhưng so với các xà vùng căn cứ

kháng chiến của huyện Câu Ngang thì Hiệp Hòa ít bị chiến tranh

tàn phá, tạo được tiền đề ban đầu đe khôi phục và phát triển. Trải

qua thừ thách của lịch sử, cộng đồng các dân tộc Hi ộp Hòa vốn

có truyền thôn" đoàn kết keo sơn và cần cù, năng động trong lao

động sản xuất. Truyền thống quí báu này được tổ chức cơ sở

Đảng địa phương, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy Câu Ngang,

khơi dậy đúng mức và phát huy mạnh mẽ thành sức mạnh tôn"

họp, vượt qua bao khó khăn thách thức trong giai đoạn cách

mạng m ới...

Bên cạnh nhũng thuận lợi có tính cơ bản đó, Chi bộ Đảng

và Nhân dân Hiệp Hòa đứng trước những khó khăn thách thức vô

cùng to lớn. Chế độ thuộc địa nô dịch hàng trăm năm, rồi hai

cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài 30 năm do bọn thực dân đế

quốc gây ra đã đê lại cho địa phương nhũng hậu quả nặng nê.

I. về chỉnh trị

Với tính chất cửa ngõ các xã “vùng ruột” của huyện

Cầu Ngang, Trà Cú (bao gồm Hiệp Hòa, Nhị Trường, Long Sơn,

Ngũ Lạc, Đôn Châu, Long H iệp...) nhiêu dân lăm của, lại có

đông đồng bào dân tộc Khmer, Hiệp Hòa luôn chiếm vị trí quan

trọng trong hệ thống chiến lược phòng thủ - tiến công của địch.

Do vậy, chúng thường xuyên tập trung xây dựng ở đây một lực

lượng chính trị - quân sự khá mạnh, do những tên chỉ huy ác ôn

nhất chỉ huy, mà điển hình như tên Tổng Khương, trung úy Hiếu,

thiếu úy D ương... Hiệp Hòa là một trong nhũng xã bị địch kềm

chặt nhất của huyện c ầu Ngang. Theo số liệu thống kê, gần 70%

số hộ dân tại Hiệp Hòa có thân nhân tham gia bộ máy ngụy quân,

ngụy quyền. Đen những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn,

Hiệp Hòa vẫn được xem là phân chi khu mạnh của chi khu cầu

Ngang, với hon 400 tay súng được trang bị đầy đủ. Không những

vậy, về mặt chính trị, các chế độ thực dân, đế quốc liên tục triển

khai các âm mun, thủ đoạn thâm độc nhăm lừa mị mua chuộc,

kích động gây chia rẽ dân tộc, chia rẽ tôn giáo, cụ thế như việc

hình thành nhiêu tố chức chính trị phản động như Khmer Sarây,

đảng Khăn trắng... Từ sau Hiệp định Paris (1973), các thế lực

thù địch ráo riết triển khai thực hiện "kế hoạch hậu chiến ” nhằm

chống phá lâu dài khối đại đoàn kết toàn dân tộc cũng như sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tô quốc tại Hiệp Hòa. Sau ngày giải

phóng, lợi dụng chính sách khoan hồng của cách mạng, bọn

ngoan cố tại chồ câu kết với bọn phản động từ Campuchia trốn

về, ngấm ngầm hoạt động phá hoại đời sống sản xuất của Nhân

dân địa phương, về phía cách mạng, tuy bị địch kềm chặt và

nhũng điều kiện tự nhiên, xã hội không thuận lợi như các xã

vùng căn cứ, nhưng dại đa số Nhân dân Hiệp Hòa vẫn một lòng

một dạ tin tưởng Đảng, đi theo Đảng. Chi bộ Đảng và lực lượng

vũ trang nhân dân Hiệp Hòa - dưới sự lãnh đạo trực tiếp và sự chi

viện kịp thời của Huyện ủy cầu Ngang - đã kiên cường bám trụ,

xây dựng căn cứ lổm ấp Phiêu, trực tiếp bám dân, tồ chức và lãnh

đạo Nhân dân đấu tranh với địch. Tuy nhiên, so với các xã trong

huyện Cầu Ngang, tổ chức cơ sở Đảng Hiệp Hòa trong chiến

tranh ít về số lượng, yếu về chất lượng. Đại bộ phận đảng viên,

cán bộ chiến sĩ cách mạng Hiệp Hòa xuất thân từ nông dân, trình

độ văn hóa và ]ý luận chính trị hạn chế, chuyến từ hoạt động

chiên đấu sang hoạt động quản lý, điều hành xã hội mà chưa có

được sự chuẩn bị cần thiết, chưa qua đào tạo, chưa có kinh

nghiệm. Cũng do hạn chế về bản lĩnh chính trị, khi chuyển sang

môi trường hoạt động mới trong một xã hội đa dạng, phức tạp,

một bộ phận cán bộ, đảng viên của Hiệp Hòa có biểu hiện tự

mãn, nãy sinh tư tưởng công thần, địa vị; một số khác lại có biểu

hiện không vững vàng trước cáin dỗ vật chất nên tha hóa, biến

chất... làm giảm sức chiến đấu của Đảng cũng như làm giảm

lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự

quản lý, điều hành của chính quyền cách mạng.

2. về kinh tế

Cho đến ngày giải phóng, trừ một bộ phận nhỏ người Hoa,

tuyệt đại đa số người Kinh và người Khmer ở Hiệp Hòa sinh

sống bằng nghề ruộng (chiếm đến 98% tồng dân số). Các ngành

nghề như thương mại dịch vụ, tiếu thủ công nghiệp... chưa hình

thành. So với các địa phương khác trong huyện Câu Ngang, Hiệp

Hòa có những thuận lợi để phát triển nông nghiệp như diện tích

lớn, độ nhiễm mặn thấp, người dân cần cù và đã tích lũy được

nhiều kinh nghiệm trong quá trình lao động sản xuất... nhưng do

hậu quả của chế độ nô dịch hàng trăm năm nên ruộng đất vẫn còn

sự tập trung nhất định trong tay một số hộ địa chủ nhỏ, phú nông

và trung nông trên. Theo thống kê, năm 1975, cả xã còn khoảng

30 hộ có từ 10 - 30 ha ruộng như Trần Văn Hưng (10 ha), Ba

Ngạn (20 ha), Trần Văn Thạng (25 h a)... thực hiện phát canh thu

tô. Cộng vào đó, cuộc chiến tranh bom đạn khốc liệt do thực dân

đế quốc gây ra nên một bộ phận ruộng đất bị hoang hóa, nhiều gia

đình rời bỏ nhà cửa, ruộng vườn... tản cư ra các vùng đô thị. Là

nông dân sống bằng nghề ruộng nhưng sau ngày giải phóng, hơn

30% hộ dân Hiệp Hòa không có đất hoặc thiếu đất nghiêm trọng

cho sản xuất, nhất là trong vùng đồng bào Khmer. Do điều kiện

tự nhiên của một xã “vùng ruột" xa sông lớn nên các cánh đồng

Hiệp Hòa vừa bị nhiễm mặn (Đồng Đông), khô hạn (Đồng Tây),

thiếu nước ngọt và nhiễm phèn nặng nề, việc sản xuất phụ thuộc

hoàn toàn vào thời tiết. Hằng năm, người nông dân Hiệp Hòa chỉ

gieo cấy một vụ lúa, thường là lúa sớm hoặc lúa trung mùa, đế

kịp thu hoạch trước khi đồng khô trắng hoặc nước mặn xâm

nhập. Năm nào mùa mưa dứt sớm, cả cánh đồng Hiệp Hòa rơi

vào cảnh mất mùa, đói kém. Việc chấm dứt chiến tranh, che độ

Sài Gòn bị đánh đổ cũng có nghĩa một bộ phận không nhỏ hộ dân

Hiệp Hòa trước đây tham gia ngụy quân, ngụy quyền không còn

nguồn thu nhập từ lương, đời sống gặp khó khăn. Cộng vào đó là

nhũng yêu kém trong quản ]ý, điều hành kinh tế, xã hội của ta

làm cho sản xuất công nghiệp chậm phát triền, hàng hóa khan

hiếm, giá cả thị trường tăng vọt. Nhũng khó khăn này đã tác động

tiêu cực đôn sản xuất, đời sống người dân Hiệp Hòa gặp nhiều

khó khăn, một bộ phận rơi vào cảnh thiếu đói, ảnh hưởng đến

lòng tin của quân chúng nhân dân đối với Đảng và chính quyền.

3. về vãn h óa-xã hội

Sự thống trị hàng trăm năm của chế độ thực dân, đế quốc và

bọn phản động tay sai, cộng với hai cuộc chiến tranh ác liệt kéo

dài đã kêm hãm các giá trị tiến bộ, đông thời tạo điều kiện phát

triển các yếu tố phản động, lạc hậu, đồi trụy trên lĩnh vực văn hóa

- xã hội tại Hiệp Hòa. Tuy là vùng kềin chặt, điều kiện tự nhiên và

xã hội thuận lợi so với các địa phương khác trong huyện, nhưng

chế độ Sài Gòn cũng không đầu tư xây dụng nhiều thiết chế văn

hóa xã hội tại Hiệp Hòa. Cho đến ngày 30/4/1975, tại Hiệp Hòa

có một trường Tiêu học cộng đồng (tại chùa Mới ấp Giữa, nay

thuộc xà Kim Hòa) cùng 2 điểm trường sơ học (đến lóp Ba, tại

Bình Tân và Phiêu), một trường Trung học tinh hạt (tại Tri Liêm)

và một Nhà bảo sanh (tại ấp Hòa Lục), không đáp ứng được nhu

câu người dân địa phương. Trường học ít và thiếu dẫn tới nạn mù

chừ hoành hành trong bộ phận cư dân lớn tuôi và mặt bằng dân trí

thấp trong giới trẻ. Cơ sở y tế và đội ngũ thầy thuốc ít về số

lượng, kém vê chât lượng khiên cho chât lượng sức khỏe người

dân thâp, dịch bệnh thường xuyên xuất hiện, luối thọ trung bình

thấp. Song song đó, tuy là xã nông thôn sâu, nhung lối sống gắp.

sống thực dụng, đua đòi vật chất, tôn sùng văn hóa Mỹ, hạ thấp

giá trị văn hóa truyền thống dân tộ c... cùng các tộ nạn xã hội như

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!