Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Lập luận trong một số tác phẩm văn chính luận trung đại việt nam.
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
LƯU THỊ HỌA
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
LẬP LUẬN TRONG MỘT SỐ TÁC
PHẨM VĂN CHÍNH LUẬN TRUNG
ĐẠI VIỆT NAM
Đà Nẵng 04/05/2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của Thầy Bùi Trọng Ngoãn. Tôi xin chịu trách nhiệm về nội dung
khoa học trong công trình này.
Đà Nẵng, ngày tháng 5 năm 2015
Sinh viên
Lưu Thị Họa
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi còn
nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của nhiều người.
Nhân đây tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến lãnh đạo Trường Đại học
Sư phạm – Đại học Đà Nẵng, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ Văn đã tạo điều kiện
cho tôi được thực hiện đề tài khóa luận này.
Xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình, chu đáo của Thầy Bùi
Trọng Ngoãn trong suốt quá trình thực hiện khóa luận, từ việc xác định trọng
tâm đề tài, tìm kiếm tài liệu để phát triển nội dung đề tài…
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô quản lý thư viện trường
Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng, phòng tư liệu khoa Ngữ Văn đã giúp đỡ
tôi trong việc tìm kiếm và sưu tầm tài liệu để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp
này.
Xin chân thành cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của quý thầy cô!
Đà Nẵng, ngày tháng 5, năm 2015
Sinh viên
Lưu Thị Họa
LẬP LUẬN TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN CHÍNH LUẬN TRUNG ĐẠI
VIỆT NAM
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trên thế giới, lập luận không phải là vấn đề mới. Ngay thời Hi Lạp cổ đại,
khi bàn về nghệ thuật hùng biện, lập luận đã được đề cập. Tuy nhiên, lúc này,
lập luận vẫn giới hạn ở phạm vi logic học (luận lí học). Cũng như vậy, khi nói
đến văn nghị luận, trong nhà trường đã giảng dạy về các cách thức lập luận
như diễn dịch, quy nạp…Tuy nhiên phải đến khi có sự xuất hiện của Ngữ dụng
học thì lập luận của phát ngôn mới trở thành đối tượng của Ngôn ngữ học.
Trong văn chính luận, lập luận được phát huy cao nhất, đặc trưng của nó được
thể hiện rõ nhất.
Trong lịch sử Văn học Việt Nam, các nhà văn thời Trung đại đã để lại một
khối lượng tác phẩm văn chính luận lớn với nhiều tác phẩm có giá trị. Văn
chính luận Trung đại Việt Nam đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Tuy
nhiên, các nhà nghiên cứu chủ yếu tập trung vào tìm hiểu tính chất lịch sử,
chính luận, chiến đấu mà hầu như chưa chú trọng đến vấn đề lập luận trong
văn chính luận Trung đại.
Trong lịch sử văn học Trung đại Việt Nam, nhiều nhà văn chính luận đã
xuất hiện, trong đó có Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm là hai nhà văn chính luận
kiệt xuất. Một số tác phẩm văn chính luận Trung đại Việt Nam đã được đưa
vào giảng dạy ở bậc Phổ thông, Đại học. Việc tiếp nhận tác phẩm văn chính
luận Trung đại Việt Nam dưới góc nhìn lập luận là hướng đi có cơ sở khoa học,
mang tính hiệu quả cao.
Từ những căn cứ trên, chúng tôi đi vào tìm hiểu đề tài: Lập luận trong
một số tác phẩm văn chính luận Trung đại Việt Nam.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các hình thức và vai trò của lập luận trong một
số tác phẩm văn chính luận Trung đại Việt Nam.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là 63 bài văn chính luận của các tác giả Lý Công Uẩn,
Lý Thường Kiệt, Lý Phật Mã, Trần Quốc Tuấn, Trần Mạnh, Nguyễn Trãi và Ngô
Thì Nhậm thuộc các triều đại Lý, Trần, Hậu Lê và Tây Sơn.
3. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
3.1. Lịch sử nghiên cứu về lập luận
Từ xa xưa, lập luận đã được quan tâm nhiều. Lập luận đã được đề cập
trong logic học từ trước công nguyên. Trong nhà trường, lập luận đã được đề
cập trong việc xây dựng cũng như phân tích các bài văn nghị luận. Khi xuất hiện
Ngữ dựng học, lập luận trở thành đối tượng của Ngữ dụng học. Ở phần 1.1.
của chương 1, chúng tôi sẽ trình bày đầy đủ về lập luận trong Logic học, trong
Sách giáo khoa về văn nghị luận và trong Ngữ dụng học.
3.2. Lập luận trong văn chính luận Trung đại Việt Nam
Thực tế, khi nói (viết), người nói (người viết) luôn luôn sử dụng cách lập
luận. Đặc biệt, trong các thể loại tranh biện, kiến giải; trình bày một quan niệm;
một tư tưởng, lập luận trở thành phương tiện quan trọng, hữu dụng nhất. Tuy
nhiên, trong thực tế khi giảng dạy về văn nghị luận Trung đại Việt Nam, hầu
như người ta chỉ quan tâm nó như một tác phẩm văn chương tức là loại văn
nghệ thuật với hai đặc trưng: Tính hình tượng và tính hư cấu. Trong khi đó, lập
luận ít được chú ý. Theo tìm hiểu của chúng tôi, những công trình sau có đề
cập đến một số vấn đề về lập luận trong văn chính luận Trung đại Việt Nam:
“Quân trung từ mệnh tập”, đỉnh cao của dòng văn học luận chiến ngoại giao
chống xâm lược (bài viết của Nguyễn Huệ Chi) [15, tr 170], Tìm hiểu phương
pháp lập luận của Nguyễn Trãi trong “Quân trung từ mệnh tập” (bài viết của
Đặng Thị Hảo) [15, tr 209], Cần hình thành cho học sinh cách đọc hiểu tác phẩm
nghị luận trung đại ( Huỳnh Văn Hoa, Tạp chí Giáo dục số 160, tháng 4 năm
2007), Lập luận trong văn chính luận của Nguyễn Trãi, khảo sát qua “Quân
trung từ mệnh tập” (đề tài Sinh viên Nghiên cứu Khoa học của chúng tôi).
4. Giá trị lí luận và thực tiễn của đề tài
4.1. Giá trị lí luận
Đề tài hệ thống hóa những vấn đề lí luận về lí thuyết lập luận.
4.2. Giá trị thực tiễn
Tiếp cận các tác phẩm văn chính luận Trung đại Việt Nam theo hướng lập
luận được phân tích trong các sách giáo khoa về văn nghị luận.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đi vào nghiên cứu đề tài “Lập luận trong một số tác phẩm văn chính luận
Trung đại Việt”, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp miêu tả:
Trong phương pháp miêu tả, chúng tôi sử dụng các thủ pháp sau: Thủ
pháp xã hội học, thủ pháp phân tích ngôn cảnh, thủ pháp phân loại và hệ thống
hóa, thủ pháp logic học, thủ pháp thống kê toán học.
- Phương pháp so sánh:
So sánh hình thức lập luận giữa các bức thư, các bài chiếu, biểu, giữa
một số tác giả văn Văn học Trung đại Việt Nam tiêu biểu.
6. Bố cục của khóa luận
Đề tài Lập luận trong một số tác phẩm văn chính luận Trung đại Việt
Nam” ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của đề tài được chúng tôi
triển khai qua ba chương sau:
Chương 1: Những vấn đề lí luận liên quan đến đề tài
Chương 2: Khảo sát hình thức lập luận trong một số bài văn chính luận
Trung đại Việt Nam.
Chương 3: Vai trò của lập luận đối với tính hùng biện trong một số bài
văn chính luận Trung đại Việt Nam
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Lập luận
1.1.1. Lập luận trong Logic học
Trong Logic học, lập luận được hiểu gần giống suy luận. Suy luận được
hiểu là “hình thức của tư duy nhờ đó rút ra phán đoán mới từ một hay nhiều
phán đoán theo các quy tắc logic xác định” [5, tr.123]. Phán đoán được hiểu là
“hình thức của tư duy trong đó nêu lên sự khẳng định hay phủ định về sự vật,
các thuộc tính hoặc các quan hệ của chúng. Phán đoán được biểu thị bằng câu”
[5, tr.8].
Trong Logic học đại cương, Vương Tất Đạt viết: Quan hệ suy diễn logic
giữa các tiên đề và kết luận được quy định bởi mối liên hệ giữa các tiền đề về
mặt nội dung. Nếu các phán đoán không có liên hệ về mặt nội dung thì không
thể lập luận và rút ra kết luận. Tính chân thực của kết luận phân tích và tính
chân thực của các tiền đề và tính đúng đắn logic của mối quan hệ nội dung
giữa các tiền đề. Trong quá trình lập luận để thu được tri thức chân thực mới
cần tuân theo hai điều kiện:
a) Thứ nhất: các tiền đề của suy luận phải chân thực.
b) Thứ hai: phải tuân theo các quy tắc logic của lập luận [5, tr.124].
Như vậy với cách hiểu đó, kết luận trong logic học không thuộc lập luận.
Lập luận chỉ được hiểu là một phương thức để rút ra kết luận.
Căn cứ vào cách thức lập luận, suy luận được chia ra thành suy luận diễn
dịch (suy diễn) và suy luận quy nạp (quy nạp). Suy diễn là suy luận trong đó lập
luận từ cái chung đến cái riêng, đơn nhất. Quy nạp là suy luận trong đó lập luận
từ cái riêng, cái đơn nhất đến cái chung [5, tr.127]. Suy diễn được chia thành
suy diễn trực tiếp và suy diễn gián tiếp.
Trong Logic học, thế lưỡng phân chân thực / giả dối hay đúng / sai rất
quan trọng trong quá trình lập luận. Theo Logic học đại cương của Vương Tất
Đạt: Tính chân thực của nội dung tư tưởng là điều kiện cần để đạt tới các kết
quả chân thực trong quá trình lập luận. Nhưng nếu lập luận chỉ tuân theo các
điều kiện đó thì chưa đủ; lập luận còn phải tuân theo tính đúng đắn về hình
thức hay tính đúng đắn logic. Tính đúng đắn logic của lập luận do các quy luật
và các quy tắc tư duy (quy luật không cơ bản quy định). Trong quá trình lập
luận, nếu chỉ vi phạm một trong những yêu cầu của chúng sẽ dẫn tới những sai
lầm logic và kết quả thu được sẽ không phù hợp với hiện thực. Để rút ra kết
luận đúng đắn trong quá trình lập luận, cần phải tuân theo hai điều kiện: 1) Các
tiên đề dùng để xây dựng lập luận phải chân thực và 2) Sử dụng chính xác các
quy luật (và quy tắc) của tư duy [5, tr.13]. Trong quá trình lập luận, Logic học
đòi hỏi phải tuân theo quy luật đồng nhất, không mâu thuẫn, loại trừ cái thứ
ba, lí do đầy đủ.
Trong logic có phép quy nạp và diễn dịch. Quy nạp hay diễn dịch đều là
đi từ luận cứ đến kết luận. Nếu đi từ luận cứ cục bộ đến kết luận khái quát thì
ta có quy nạp, nếu đi từ từ một tiền đề khái quát đến suy ra kết luận cục bộ thì
ta có diễn dịch. Nói tới lập luận thường là nói tới suy luận theo diễn dịch và ta
thường nghĩ ngay đến logic, đến lí luận, đến diễn ngôn nghị luận…Ở tam đoạn
luận logic kết luận là hệ quả tất yếu của đại tiền đề, tiểu tiền đề và của thao tác
suy diễn. Nếu đại tiền đề đúng, tiểu tiền đề đúng và thao tác suy diễn đúng thì
kết luận tất yếu phải đúng…Một kết luận logic chỉ có hai khả năng hoặc đúng,
hoặc sai, đúng hay sai không thể bác bỏ, có nghĩa là nếu kết luận logic đã đúng
thì không thể lập luận chứng minh rằng nó sai. Ngược lại nếu nó đã sai thì
không thể chứng minh rằng nó đúng [2, tr.165].
1.1.2. Lập luận trong các sách giáo khoa về văn nghị luận
Trong Luyện cách lập luận trong đoạn văn nghị luận cho học sinh phổ
thông, Nguyễn Quang Ninh (Chủ biên), lập luận được hiểu là: Đưa ra những lí lẽ,
dẫn chứng một cách đầy đủ, chặt chẽ và đáng tin cậy nhằm dắt dẫn người đọc,
người nghe đến với một kết luận hoặc chấp nhận một kết luận nào đấy mà
người viết, người nói muốn đạt tới [11, tr.10]. Nói một cách khái quát, lập luận
là quá trình xây dựng lí lẽ để đề xuất ý kiến, liên kết các ý kiến dẫn đến kết luận
của bài viết, bài nói [11, tr.12]. Tác giả Luyện cách lập luận trong đoạn văn nghị
luận cho học sinh phổ thông cho rằng một lập luận có các yếu tố là luận cứ lập
luận, kết luận lập luận, cách thức lập luận, có các dạng lập luận thường gặp là
lập luận diễn dịch, lập luận quy nạp, lập luận phối hợp. Trong xây dựng lập luận,
người xây dựng phải chú ý các thao tác như thao tác logic, thao tác trình bày.
Thao tác logic gồm phân tích, tổng hợp và tổng phân hợp. Thao tác trình bày
gồm giải thích, chứng minh, bình luận, so sánh và nhân quả. Đồng thời, tác giả
Luyện cách lập luận trong đoạn văn nghị luận cho học sinh phổ thông cũng chỉ
ra các lỗi lập luận là lỗi luận cứ và lỗi kết luận. Lỗi luận cứ gồm: luận cứ không
đầy đủ, luận cứ sắp xếp lộn xộn, luận cứ không phù hợp với kết luận, các luận
cứ tương phản; mâu thuẫn nhau. Lỗi kết luận gồm: thiếu kết luận, kết luận
không rõ ràng.
Trong Luyện cách lập luận trong đoạn văn nghị luận cho học sinh phổ
thông, Nguyễn Quang Ninh (Chủ biên), luận cứ; kết luận; cách thức lập luận
được hiểu là: Những lí lẽ, những dẫn chứng được rút ra từ thực tiễn đời sống
xã hội, đời sống văn học hoặc những chân lí được nhiều người thừa
nhận….dùng làm chỗ dựa, làm cơ sở cho việc dẫn tới kết luận [11, tr.12]. Kết
luận lập luận là điều rút ra được sau khi đã giải thích, phân tích và chứng minh
trong quá trình lập luận [11, tr.14]. Cách thức lập luận là sự phối hợp, tổ chức,
liên kết các luận cứ theo những cách thức suy luận nào đấy để dẫn đến kết
luận và làm nổi bật kết luận [9, tr.15]. Luận cứ có thể chia thành hai loại là luận
cứ thực tế và luận cứ nhân tạo. Kết luận lập luận được phân làm hai loại là kết
luận tường minh và kết luận không tường minh.
Chương trình Sách giáo khoa trong nhà trường, văn nghị luận đã được
đưa vào giảng dạy, cụ thể: Sách giáo khoa Ngữ Văn 10 có các bài: Lập dàn ý bài
văn nghị luận, Lập luận trong văn nghị luận, Các thao tác nghị luận,…; Sách giáo
khoa Ngữ Văn 11 có các bài: Thao tác lập luận phân tích, Thao tác lập luận so
sánh, Thao tác lập luận bác bỏ…nhằm giới thiệu, rèn luyện cho học sinh cách
thức lập luận cũng như đi vào tìm hiểu, phân tích một văn bản nghị luận.
Trong văn bản, trong diễn ngôn, chúng ta thường nói tới tư tưởng chủ
đề. Tư tưởng chủ đề thường là kết luận tường minh hay hàm ẩn. Nói khác đi,
một văn bản, một diễn ngôn (hay một đoạn văn) là một lập luận đơn hay lập
luận phức bất kể văn bản viết theo phong cách chức năng nào. Tính lập luận là
sợi chỉ đỏ đảm bảo tính mạch lạc về nội dung bên cạnh tính liên kết về hình
thức của văn bản, diễn ngôn [2, tr.174].
Theo thầy Bùi Trọng Ngoãn: Các phép lập luận đã xuất hiện từ lâu trong
lịch sử Ngữ Văn của nhân loại. Các nhà triết học cổ đại Hi Lạp đã bàn về các
phương pháp lập luận khi nói về nghệ thuật tranh luận. Sau này, lập luận là
một đối tượng của logic học, tức là một bước phát triển đỉnh cao của suy luận
toán học và nó được hình thành thành một chuyên ngành khoa học từ thế kỉ
XVIII.
Logic học bao giờ cũng gọi một nội dung cần được làm sáng tỏ, làm
thuyết minh là vấn đề. Làm sáng tỏ nó, người ta cần các phán đoán.
Ví dụ:
Khi nói đến Hà Nội, người ta sẽ nghĩ tới những phán đoán cơ bản sau:
- Phán đoán 1: Thành phố lớn.
- Phán đoán 2: Có lịch sử lâu dài.
- Phán đoán 3: Thủ đô của Việt Nam.
Khi đi vào văn bản, vấn đề được gọi là luận đề và các phán đoán sẽ được
gọi là các luận điểm.
1.1.3. Lập luận trong Ngữ dụng học
Trước đây, lập luận (argumentation) được nghiên cứu trong tu từ học và
trong logic học. Hai nhà ngôn ngữ học Pháp: Oswald Ducrot và Jean Claude
Anscombre đã đặc biệt quan tâm tới bản chất ngữ dụng học của lập luận [2,
tr.154]…Cũng chính O.Ducrot đã cho rằng lập luận là một hành động ở lời [2,
tr.174]. Lập luận là đưa ra những lí lẽ nhằm dẫn dắt người nghe đến một kết
luận hay chấp nhận một kết luận nào đấy mà người nói muốn đạt tới. Có thể
hiểu quan hệ lập luận giữa các phát ngôn (nói đúng hơn là nội dung các phát
ngôn) như sau:
p-----r
p là lí lẽ, r là kết luận (p, r có thể được diễn đạt bằng các phát ngôn u1, u
2 v.v…)
Trong quan hệ lập luận, lí lẽ được gọi là luận cứ (argument). Vậy có thể
nói quan hệ lập luận là quan hệ giữa luận cứ (một hoặc một số) với kết luận.
Luận cứ có thể là thông tin miêu tả hay là một định luật, một nguyên lí xử thế
nào đấy. Ví dụ:
- Con mèo này màu đen (p) (nên) rất dễ sợ (r)
p là một thông tin miêu tả.
- Mệt mỏi thì phải nghỉ ngơi (p) mà cậu thì đã làm việc liền 8 tiếng rồi
(q)-----cậu phải nghe nhạc một lát (r).
Luận cứ và kết luận là những thành phần trong lập luận. Thuật ngữ lập
luận được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, nó chỉ sự lập luận, tức hành vi lập
luận. Thứ hai, nó chỉ sản phẩm của hành vi lập luận, tức toàn bộ cấu trúc của
lập luận, về cả nội dung và hình thức [2. Tr.155]. Tác giả Đỗ Hữu Châu quan
niệm cần phân biệt lập luận logic với lập luận đời thường. Tác giả viết: Ngữ
dụng là lĩnh vực của ngữ nghĩa không thể đánh giá được theo tiêu chuẩn đúng
– sai logic. Chứng minh bản chất ngữ dụng của lập luận đời thường là chứng
minh rằng nó không bị chi phối bởi quy tắc, các tiêu chuẩn đánh giá của lập
luận logic [2, tr.165]. Một kết luận đúng logic thì chỉ cần một luận cứ, trong
một lập luận logic, không thể dẫn nhiều luận cứ cho cùng một kết luận [2,
tr.167]. Trong Ngữ dụng học, giữa các luận cứ có quan hệ định hướng lập luận,
có nghĩa là p và q được đưa ra để hướng tới một kết luận nào đấy. P và q có
thể đồng hướng lập luận khi cả hai đều dẫn đến một kết luận chung, kí hiệu:
p ----3 r
q-----3 r
p và q có thể nghịch hướng lập luận khi p hướng tới r còn q hướng tới – r
(nên chú ý r và – r cùng một phạm trù, nói khác đi – r là phủ định của r. Nếu p
hướng tới r, q hướng tới kết luận s thì chúng khác biệt về định hướng lập luận).
Kí hiệu:
p-----3 r
q-----3 – r [2, tr. 177].
Xét theo quan hệ định hướng lập luận, các luận cứ có thể có thể có hiệu
lực lập luận khác nhau, có nghĩa là p có sức mạnh đối với kết luận (hoặc – r) lớn
hơn q hoặc ngược lại. Luận cứ có hiệu lực lập luận mạnh hơn thường được đặt
ở sau luận cứ có hiệu quả lập luận yếu hơn [2, tr.178].
Chỉ lập luận đời thường, không phải lập luận logic mới chấp nhận các
hành vi ở lời và các biểu thức (các phát ngôn ngữ vi) làm thành phần…Một nội