Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC GÓP Ý SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC
GÓP Ý SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU
CỦA LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
TP. HỒ CHÍ MINH, NGÀY 08 THÁNG 11 NĂM 2023
CHƯƠNG TRÌNH HỘI THẢO KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
“GÓP Ý SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN
DỤNG”
---------------------------
Thời gian: 8h00, Thứ Tư, ngày 08/11/2023
7:50 – 8:00 Tiếp đón đại biểu
8:00 – 8:10 Chào mừng các diễn giả và khách mời
8:10 – 8:20
Khai mạc hội thảo
PGS. TS. Hà Thị Thanh Bình
Trưởng Khoa Luật Thương Mại - Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
Phiên 1
Chủ tọa:
- PGS. TS. Hà Thị Thanh Bình, Trưởng Khoa Luật Thương mại.
- PGS. TS. Nguyễn Văn Vân, Nguyên Trưởng Khoa Luật Thương mại.
- TS. Phan Thị Thành Dương, Trưởng Bộ môn Luật Tài chính – Ngân
hàng – Thuế, Khoa Luật Thương mại.
8:20 – 8:35
“Góp ý sửa đổi bổ sung các quy định về phạm vi hoạt động
của ngân hàng thương mại”
PGS.TS. Nguyễn Văn Vân
Khoa Luật Thương Mại - Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
8:35 – 8:50
“Một số góp ý nhằm hoàn thiện dự thảo Luật các tổ chức
tín dụng (sửa đổi)”
ThS. Trần Thanh Bình, Nguyễn Phú Kim Thư, Trần
Ngọc Thanh Nguyên
Công Ty Luật TNHH Lee & Ko Việt Nam
8:50 – 9:05
“Góp ý sửa đổi, bổ sung Luật các tổ chức tín dụng –
nhìn từ góc độ chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt
Nam”
Trần Ngọc Thụy
Phòng Pháp chế, Ngân hàng Cathay United Bank – Chi
nhánh Tp. HCM
9: 05 – 9:40 Thảo luận
Chủ tọa:
- PGS. TS. Hà Thị Thanh Bình, Trưởng Khoa Luật Thương mại.
- PGS. TS. Nguyễn Văn Vân, Nguyên Trưởng Khoa Luật Thương
mại.
- TS. Phan Phương Nam, Phó Trưởng Khoa Luật Thương mại.
9:40– 09:55
“Hoàn thiện pháp luật về tổ chức tài chính vi mô”
TS Nguyễn Xuân Bang
Phó trưởng khoa Luật, Đại học công nghiệp TP HCM
09:55-10:10
10:10-10:25
10:25 – 11:00 Thảo luận
“Tác động của dự thảo luật các tổ chức tín dụng mới lên
hoạt động xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại”
Ths Văn Thành Khánh Linh
Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Bản Việt
“Cơ sở khung pháp lý điều chỉnh hoạt động đại lý ngân
hàng”
Ths Nguyễn Thị Thương - Ths Lê Thị Ngân Hà
Khoa Luật Thương Mại - Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
11:00 – 11:10
Phát biểu kết luận & Bế mạc hội thảo:
PGS. TS. Nguyễn Văn Vân
Khoa Luật Thương Mại - Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
MỤC LỤC
Góp ý sửa đổi, bổ sung các quy định về phạm vi hoạt động của Ngân
hàng thương mại
PGS. TS. Nguyễn Văn Vân
1
Bàn về một số bất cập, hạn chế trong dự thảo Luật các tổ chức tín dụng
và kiến nghị hoàn thiện
TS. Phan Phương Nam
11
Góp ý sửa đổi, bổ sung Luật các tổ chức tín dụng-Nhìn từ góc độ chi
nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
Trần Ngọc Thuỵ
21
Một số góp ý nhằm hoàn thiện dự thảo Luật các tổ chức tín dụng (sửa
đổi)
ThS. Trần Thanh Bình, Nguyễn Phú Kim Thư, Trần Ngọc Thanh Nguyên
30
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức tài chính vi mô
TS. Nguyễn Xuân Bang, ThS. Hoàng Văn Thành
43
Người đại diện theo pháp luật của tổ chức tín dụng theo quy định của
Luật các tổ chức tín dụng và luật doanh nghiệp 2020
Nguyễn Thu Thuỷ
50
Kiểm soát giao dịch có khả năng tư lợi trong hoạt động của ngân hàng
thương mại và một số góp ý hoàn thiện dự thảo Luật các tổ chức tín
dụng sửa đổi
ThS. Trần Linh Huân, Lê Thị Châu Giang
59
Đề nghị bổ sung quy định liên quan đến chế định tài sản bảo đảm vào
Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi
ThS. Thái Văn Đoàn
70
Góp ý quy định về quyền thu giữ tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng
trong dự thảo Luật các tổ chức tín dụng (sửa đổi)
TS. Trương Thị Tuyết Minh
79
Thực trạng và một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật các tổ chức tín
dụng về vấn đề xử lý nợ xấu
ThS. Nguyễn Thị Hoài Thu
91
Tác động dự thảo Luật các tổ chức tín dụng mới lên hoạt động xử lý
nợ xấu của ngân hàng thương mại
102
ThS. Văn Thành Khánh Linh
Quy định về xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng theo dự thảo Luật
các tổ chức tín dụng sửa đổi và một số góp ý hoàn thiện
ThS. Trần Linh Huân, Lê Phạm Anh Thơ
116
Quy định pháp luật về cung ứng dữ liệu cá nhân trong hoạt động ngân
hàng
ThS. Lê Thị Ngân Hà, Nguyễn Văn Dương
127
Pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng của tổ chức cung ứng dịch
vụ trung gian thanh toán và kinh nghiệm từ pháp luật Hoa Kỳ
ThS. Nguyễn Thị Bích Mai
142
Rủi ro về bảo mật thông tin đối với việc định danh khách hàng điện tử
(eKYC) trong hoạt động ngân hàng – kinh nghiệm từ nước ngoài và
bài học cho Việt Nam
Nguyễn Thái Thảo Vy, Nguyễn Thái Hà, Nguyễn Thị Minh Nguyệt, Phùng
Lê Bảo Ngọc
156
Cơ sở thiết lập khung pháp lý điều chỉnh hoạt động đại lý ngân hàng
ThS. Nguyễn Thị Thương, ThS. Lê Thị Ngân Hà
165
1
GÓP Ý SỬA ĐỔI BỔ SUNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ PHẠM VI HOẠT ĐỘNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
PGS.TS. Nguyễn Văn Vân
Khoa Luật Thương mại, Trường Đại học Luật Tp HCM
Abstract: The article analyses and compare the regulations of the scope of
activity for commercial banks under the Law on Financial Institutions 2010, as amended
on 2017 with Draft of Law on Financial Institutions (as amended). Through identifying
the shortcomings and limitations in the application of the current Law on Financial
Institutions, in contingent with comparison and evaluation of foreseeable impact, the
author suggests some recommendations to enhance the Draft of Law on Financial
Institutions (as amended).
Keywords: banking activity; commercial banks; issuing credits, trust; capital
investment.
Tóm tắt: Bài viết phân tích so sánh các quy định về phạm vi hoạt động của ngân
hàng thương mại trong Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi bổ sung năm 2017
với Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi). Thông qua việc nhận diện các bất cập,
hạn chế từ thực tiễn áp dụng Luật Các tổ chức tín dụng hiện hành, kết hợp phân tích so
sánh, đánh giá dự báo tác động tác giả đề xuất một số ý kiến để hoàn thiện Dự thảo Luật
các TCTD (sửa đổi).
Từ khóa: Hoạt động ngân hàng; ngân hàng thương mại; cấp tín dụng, ủy thác
ngân hàng; đầu tư vốn
Mở đầu: Ngân hàng thương mại (NHTM) là một doanh nghiệp, được thành lập
để thực hiện các hoạt động kinh doanh thương mại. Tuy nhiên, xuất phát từ những đặc
trưng, vị trí và vai trò của hoạt động ngân hàng nên pháp luật phải phân định và giới
hạn phạm vi hoạt động của các tổ chức tín dụng nói chung và ngân hàng thương mại
nói riêng. Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 được Quốc hội thông qua ngày
16/6/2010, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011, được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số
17/2017/QH14 ngày 20/11/2017 (“Luật Các TCTD hiện hành”) đã quy định khá chi tiết
về hoạt động của các NHTM1
. Luật Các TCTD hiện hành đã hoàn thành sứ mệnh của
mình sau 13 năm thực hiện. Luật các TCTD hiện hành đáp ứng được yêu cầu quản lý
1 Luật Các TCTD 2010, sửa đổi bổ sung 2017 đã thiết kế 01 chương độc lập (chương IV) để quy định về hoạt
động của TCTD nói. Cấu trúc chương 4, gồm mục 1: những quy định chung, tương ứng các mục còn lại (2,3,4
vat 5) là các quy định đặc thù cho từng loại hình tổ chức tín dụng.
2
và định hướng cho hoạt động, phát triển các TCTD trong một thời kỳ khá dài, góp phần
tạo sự ổn định về môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng2
.
Thực hiện Nghị quyết số 63/2022/QH15 ngày 16/6/2022 của Quốc hội và Nghị
quyết số 33/2023/UBTVQH15 ngày 17/3/2023 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Ban
soạn thảo Dự án Luật Các TCTD (sửa đổi) (“Dự thảo”) công bố để lấy ý kiến đóng
góp3
.
Theo Tờ trình số 270/TTr – CP, ngày 22 tháng 05 năm 2023 của Chính phủ gửi
Quốc Hội thì Dự thảo Luật Các TCTD (sửa đổi) chủ yếu tập trung ở khâu tăng cường
quản lý, giám sát và quản trị nội bộ mà chưa có những sửa đổi mang tính đột phá trong
các quy định về phạm vi hoạt động của các TCTD nói chung và của NHTM nói riêng.
Một vài nội dung liên quan đến hoạt động TCTD, nhưng tập trung cho mục đích “tạo
lập hành lang pháp lý cho việc cung ứng dịch vụ ngân hàng qua phương tiện điện tử,
thúc đẩy chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng như bổ sung quy định điều chỉnh
hoạt động cấp tín dụng bằng phương tiện điện tử tại các quy định về quy định nội bộ,
quy định về xét duyệt cấp tín dụng, quy định về lưu trữ hồ sơ tín dụng”.
Do vậy, bài viết này nhằm góp thêm một số bình luận và nhận định về những
quy định về phạm vi hoạt động của các ngân hàng thương mại. Bằng phương pháp so
sánh luật học và phương pháp phân tích – tổng hợp, tác giả phân tích so sánh các nội
dung pháp lý về hoạt động của các NHTM theo Luật Các TCTD hiện hành đồng thời
đánh giá dự báo tác động các nội dung sửa đổi (mới) trong Dự thảo.
Nội dung các góp ý:
1. Về nguyên tắc xác định phạm vi hoạt động kinh doanh của các ngân hàng
thương mại. Dự thảo tiếp tục duy trì nguyên tắc giới hạn phạm vi kinh doanh và chế độ
cấp phép. Thông qua kỹ thuật chọn – cho, tại khoản 2 Điều 90 Luật hiện hành, tương
ứng khoản 2 Điều 89 Dự thảo khẳng định: “Tổ chức tín dụng không được tiến hành bất
kỳ hoạt động kinh doanh nào ngoài các hoạt động ngân hàng, hoạt động kinh doanh
khác ghi trong Giấy phép được Ngân hàng Nhà nước cấp cho tổ chức tín dụng”.
Trên nguyên tắc đó, hoạt động của NHTM có thể tạm chia thành các nhóm:
Nhóm 1: Những hoạt động ngân hàng cơ bản (huy động vốn/ cấp tín dung, cung
cấp dịch vụ thanh toán qua tài khoản, ...) được quy định tại Điều 97 và cụ thể hóa từ
Điều 98 đến Điều 105 Dự thảo. Các NHTM đương nhiên được thực hiện tất cả hoạt
2 NHNNVN (2023) Báo cáo số 55/2023/BC-NHNH ngày 22 tháng 5 năm 2023 Tổng kết thi hành Luật Các tổ
chức tín dụng năm 2010 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng năm 2017 3 Trong bài viết này, tác giả sử dụng Dự thảo ngày 01/8/2023 từ website: Dự thảo online (quochoi.vn), truy cập
ngày 25/10/2023
3
động thuộc nhóm này sau được cấp Giấy phép thành lập và hoạt động (mà không cần
các “giấy phép con”) bởi lẽ đây là các hoạt động ngân hàng cơ bản của NHTM.
Nhóm 2: Những hoạt động kinh doanh mà NHTM chỉ được thực hiện sau khi
NHNNVN cấp phép, hoặc phải tuân thủ các thủ tục, quy trình theo hướng dẫn của
NHNN. Cần nhấn mạnh rằng, NHNNVN chỉ có quyền cho phép các hoạt động kinh
doanh đã được ghi nhận trong Luật Các TCTD, mà không phải bất kỳ hoạt động nào.
Nói cách khác, NHTM chỉ có thể kinh doanh một hoạt động nào đó thuộc nhóm (2)
phải hội đủ 2 điều kiện: (a) Luật các TCTD có trực tiếp quy định dành cho NHTM; và
(b) Có Giấy phép (riêng) do NHNNVN cấp hoặc một hình thức tương tự.
Nhóm 3: Những hoạt động mà khi thực hiện phải thành lập công ty con, công ty
liên kết như: Bảo lãnh phát hành chứng khoán, môi giới chứng khoán; quản lý, phân
phối chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán; quản lý danh mục đầu tư chứng khoán và mua,
bán cổ phiếu; cho thuê tài chính; bảo hiểm. Nếu cho rằng đây là hoạt động kinh doanh
của NHTM là không chính xác vì theo quy định pháp luật thì khi có nhu cầu thực hiện
một trong các lĩnh vực kinh doanh này, NHTM phải thành lập công ty con, công ty liên
kết. Các công ty được thành lập và hoạt động theo pháp luật chuyên ngành. Về mặt
pháp lý, chủ thể kinh doanh các hoạt động này là các công ty chứng khoán/ công ty bảo
hiểm…. NHTM chỉ là nhà đầu tư vốn/ chủ sở hữu toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ.
Nhóm 4: Những hoạt động mà NHTM không được thực hiện. Theo khoản 2 Điều
90 Luật Các TCTD hiện hành, tương ứng khoản 2 Điều 89 Dự thảo thì “Tổ chức tín
dụng không được tiến hành bất kỳ hoạt động kinh doanh nào ngoài các hoạt động ngân
hàng, hoạt động kinh doanh khác ghi trong Giấy phép được Ngân hàng Nhà nước cấp
cho tổ chức tín dụng”. Xét về kỹ thuật lập pháp đây là loại quy phạm pháp luật cấm -
ngoại trừ (chọn – cho). Trong danh mục cho phép không có hoạt động kinh doanh bất
động sản, đương nhiên HNTM không được kinh doanh bất động sản. Tuy vậy, tại điều
132 Luật Các TCTD hiện hành, tương ứng Điều 132 Dự thảo, các nhà làm luật lại tiếp
tục sử dụng kỹ thuật cấm- ngoại trừ khi lại quy định: “Tổ chức tín dụng không được
kinh doanh bất động sản, trừ các trường hợp sau đây4
:…..: Sự tồn tại quy định này có
thể giải thích là nhà làm luật muốn nhấn mạnh rằng TCTD không được kinh doanh bất
4 Điều 132: Tổ chức tín dụng không được kinh doanh bất động sản, trừ các trường hợp sau đây:
1. Mua, đầu tư, sở hữu bất động sản để sử dụng làm trụ sở kinh doanh, địa điểm làm việc hoặc cơ sở kho tàng
phục vụ trực tiếp cho các hoạt động nghiệp vụ của tổ chức tín dụng.
2. Cho thuê một phần trụ sở kinh doanh chưa sử dụng hết, thuộc sở hữu của tổ chức tín dụng.
3. Nắm giữ bất động sản do việc xử lý nợ vay. Trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày quyết định xử lý tài sản bảo
đảm là bất động sản, tổ chức tín dụng phải bán, chuyển nhượng hoặc mua lại bất động sản này để bảo đảm tỷ lệ
đầu tư vào tài sản cố định và mục đích sử dụng tài sản cố định quy định tại Điều 140 của Luật này.
4
động sản, nhưng xét về kỹ thuật lập pháp thì việc nhấn mạnh này là thừa và có thể gây
nhầm lẫn là NHTM chỉ bị cấm trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản.
Mặc khác, Điều 132 Luật Các TCTD hiện hành, tương ứng Điều 131 Dư thảo
nằm trong chương V “Các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD” mà
không phải là chương IV “Hoạt động của các TCTD”, sẽ tạo những nhầm lẫn nhất định
trong áp dụng pháp luật.
2. Dự thảo kế thừa các quy định hiện hành trong Luật các TCTD, đã phân biệt
rõ phạm vi hoạt động của từng loại TCTD, giữa nhóm TCTD là NH và TCTD phi ngân
hàng, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô…. Tuy nhiên, nhóm các chủ thể
không phải là các TCTD nhưng có tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào hoạt động thanh
toán không bằng tiền mặt chưa được Dự thảo bổ sung.
Thật vậy, hiện nay các chủ thể cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử cho khách
hàng là các tổ chức, cá nhân không chỉ các ngân hàng thương mại mà có các tổ chức
kinh tế (không phải là TCTD) được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép thực hiện
dịch vụ trung gian thanh toán5
, bao gồm: (a) dịch vụ cung ứng hạ tầng thanh toán điện
tử (dịch vụ chuyển mạch tài chính, dịch vụ bù trừ điện tử và dịch vụ cổng thanh toán
điện tử) và (b) dịch vụ hỗ trợ dịch vụ thanh toán (dịch vụ hỗ trợ thu hộ, chi hộ, dịch vụ
hỗ trợ chuyển tiền điện tử và dịch vụ ví điện tử) 6
. Mỗi chủ thể tham gia hệ thống thanh
toán có vị trí, vai trò, chức năng mục tiêu rất khác nhau. Quyền và quyền nghĩa vụ, trách
nhiệm pháp lý của các mỗi nhóm chủ thể này là khác nhau, phụ thuộc vào từng phương
thức thanh toán. Mặc dù, các chủ thể này không phải là TCTD nhưng đã đến lúc cần
khẳng định địa vị pháp lý của các chủ thể này trong đạo luật mà không chỉ quy định
trong các thông tư của NHNNVN. Chỉ khi định vị được vị trí pháp lý, quyền và nghĩa
vụ của mỗi chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về thanh toán điện tử thì mới xác định
được chủ thể bị tác động bởi các rủi ro pháp lý, phân định yếu tố lỗi và xác định chính
xác trách nhiệm bồi thường thiệt hại kể cả các trách nhiệm pháp lý khác trước khách
hàng sử dụng dịch vụ.
3. Về phân bổ nguồn vốn trong hoạt động cấp tín dụng từ các NHTM cho nền
kinh tế. Hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay khá đa dạng về loại hình, có phân định
rạch ròi nhóm TCTD hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận (trong đó có NHTM) với nhóm
5 Theo số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tính đến 02/7/2021 có 43 tổ chức không phải là ngân
hàng được nhnn cấp giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán. Xem: NHNN - Các tổ chức
CUDVTGTT không phải là ngân hàng (sbv.gov.vn) cập nhật 6 Thông tư số 39/2014/TT-NHNN ngày 11 tháng 12 năm 2014 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh toán đã được sửa đổi, bổ sung bởi:Thông tư số 20/2016/TT-NHNN ngày
30 tháng 6 năm 2016; Thông tư số 30/2016/TT-NHNN ngày 14 tháng 10 năm 2016 và Thông tư số 23/2019/TTNHNN ngày 22 tháng 11 năm 2019
5
các TCTD khác như ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân, ngân hàng chính
sách xã hội, tổ chức tài chính vi mô.
Qua 13 năm thực hiện Luật Các TCTD hiện hành cho thấy:
Thứ nhất, để thực hiện mục tiêu chính sách xã hội, hợp tác, tương trợ nội bộ cộng
đồng …. trong thời gian qua đã thành lập NHCSXH VN, NHHTX, hệ thống Quỹ tín
dụng nhân dân và Tổ chức tài chính vi mô. Mặc dù số lượng các TCTD thuộc nhóm
này (không đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu) chiếm số lượng tương đối lớn nhưng
tiềm lực tài chính không cao, chưa đảm nhận được vai trò sứ mệnh của nó trong nên
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Người nghèo cần vốn sản xuất kinh
doanh, thanh niên cần vốn để khởi nghiệp, doanh nghiệp vừa và nhỏ cần vốn để thực
hiện các dự án đầu tư nông nghiệp xanh, chuyển đổi số, kinh tế tuần hoàn… nhưng khó
tiếp cận nguồn vốn từ các NHTM, do không có tài sản thế chấp và các rào cản khác.
Thứ hai, tổng dư nợ tín dụng từ hệ thống NHTM cho các dự án đầu tư kinh
doanh bất động sản chiếm tỷ trọng lớn, không cân xứng. Theo tác giả Nguyễn Thị Mùi,
thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính thì, những năm vừa qua, “tăng trưởng
tín dụng của các NHTM trong lĩnh vực bất động sản đều ở mức cao hơn mức tăng
trưởng chung của nền kinh tế. Từ năm 2017 đến năm 2019, tín dụng đối với lĩnh vực v
tăng trưởng từ 19% đến 20%/năm và cao hơn tăng trưởng tín dụng chung của nền kinh
tế (2017: 18,17%; 2018: 13,89 %; 2019: 13,65%). Năm 2020 và 2021, tác động của
dịch Covid-19, dư nợ tín dụng bất động sản vẫn có sự tăng trưởng, tuy ở mức thấp hơn
(năm 2020: 12,06%, năm 2021: 15,37%), nhưng vẫn cao hơn mức tăng trưởng tín dụng
bình quân của nền kinh tế. Đến 31/12/ 2022, dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực bất động
sản của các NHTM đạt khoảng 2,58 triệu tỷ đồng, tăng khoảng 24% so với 2021. Trong
đó, dư nợ tín dụng BĐS tập trung vào mục đích tiêu dùng chiếm 68% và dư nợ đối với
hoạt động kinh doanh bất động sản chiếm 32% dư nợ tín dụng lĩnh vực bất động sản”.7
Một lý do dễ hiểu rằng các NHTM ưu tiên cấp tín dụng cho dự án bất động sản do lãi
suất cao, chi phí tín dụng thấp, tài sản thế chấp là QSD đất và bất động sản trên đất dễ
định giá và giá ổn định…. . Tuy nhiên, nhưng khi thị trường bất động sản đóng băng thì
hệ thống ngân hàng “thất thủ”, an ninh tiền tệ, sự an toàn hệ thống tài chính ngân hàng
quốc gia và tiền gửi của công chúng tại các NHTM biến thành “con tin” 8 buộc Nhà
nước dùng ngân sách (tiền thuế của dân) để giải cứu.
7 Nguyễn Thị Mùi (2023) Những năm vừa qua, tăng trưởng tín dụng của các NHTM trong lĩnh vực BĐS đều ở
mức cao hơn mức tăng trưởng chung của nền kinh tế. 8 Thuật ngữ của Pgs Ts Nguyễn Khắc Quốc Bảo (Trường Đại học kinh tế Tp HCM) sử dụng khi trả lời phóng
vấn của phóng viên. Xem thêm: Tiến Long (2023) Đừng bắt nền kinh tế làm 'con tin' để kêu gọi giải cứu bất
động sản, Báo Tuổi trẻ online ngày 09/02/2023 Đừng bắt nền kinh tế làm 'con tin' để kêu gọi giải cứu bất động
sản - Tuổi Trẻ Online (tuoitre.vn)
6
Thứ ba, chúng ta đang tuyệt đối hóa sự khác biệt trong mục tiêu của hai nhóm
TCTD; tuyệt đối hóa quyền tự do kinh doanh của các NHTM. Nhà nước chưa can thiệp
hiệu quả vào việc phân bổ tỷ trọng dư nợ tín dụng từ các NHTM cho nền kinh tế, dẫn
đến các NHTM tích tụ trong tay quyền năng gần như tự do tuyệt đối trong phân bổ
nguồn vốn tín dụng cho nền kinh tế.
Tác giả bài viết hoàn toàn chia sẻ quan điểm của Nguyễn Kiên Bích Tuyền, khi
nhận định rằng “cơ cấu tín dụng hiện nay cần được định hướng tập trung hơn nữa vào
mảng sản xuất, kinh doanh, nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển, vào các dự án đáp ứng
yêu cầu về môi trường, vào lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn” và “Việc khuyến khích
phân bổ dòng vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh, cho vay trong lĩnh vực nông
nghiệp, cho các dự án đáp ứng yêu cầu về môi trường nên được cụ thể hóa bằng các
quy định pháp luật về giới hạn tỉ lệ mức vốn tối thiểu cho các lĩnh vực này” 9
Từ thực tiễn trên, tác giả bài viết cho rằng:
Một là, có đủ cơ sở pháp lý- kinh tế để Nhà nước can thiệp, yêu cầu mỗi NHTM
phải phân bổ một tỷ lệ % tối thiểu trong tổng dư nợ tín dụng cho các dự án phát triển
nông nghiệp xanh, kinh tế tuần hoàn, khởi nghiệp, kinh tế số…Không phủ nhận nguyên
tắc tự do kinh doanh nhưng, nhưng nguyên tắc này chỉ nên giới hạn trong việc định đoạt
vốn chủ sở hữu. Đối với nguồn vốn huy động (để cấp tín dụng) thì NHTM chỉ là chủ
thể phân phối lại nguồn vốn xã hội cho nền kinh tế.
Hai là, các công cụ dự trữ bắt buộc, lãi suất kể cả việc yêu cầu các NHTM mua
các giấy tờ có giá … do NHNNVN phát hành, được áp dụng trong thời gian qua mang
lại những hiệu quả nhất định. Việc quy định các tỷ lệ tối thiểu trong tổng dư nợ tín cho
những vực cụ thể nào đó của nền kinh tế không hẳn là biện pháp hành chính hoặc trái
với nguyên tắc tự do kinh doanh;
Ba là, giải pháp để các NHTM tự nguyện thực hiện và không bị “tổn thương”
khi thực hiện các quy định này, cần thực hiện song hành cùng các biện pháp kinh tế
như miễn giảm thuế, tái cấp vốn, lãi suất đầu vào và cơ hội tiếp cận nguồn vốn tài trợ,
ủy thác theo các chương trình, dự án (bảo vệ môi trường, kinh tế tuần hoàn, khởi nghiệp,
xóa đói giảm nghèo…) của Nhà nước Việt Nam và các tổ chức tài chính.
Tóm lại, đã đến lúc cần luật hóa quy định này để có căn cứ pháp lý để định hướng
và điều tiết nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế, góp phần điều tiết và phát triển kinh tế
bền vững đồng thời để ngăn ngừa những rủi ro cho hệ thống ngân hàng. Nếu những quy
định đó được ghi nhận trong văn bản có giá trị pháp lý cao nhất (trong lĩnh vực tiền tệ,
9 Nguyễn Kiên Bích Tuyền (2018) Pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng thương mại ở Việt Nam,
Luận án tiến sỹ Luật kinh tế- Trường Đại học Luật Tp HCM.
7
ngân hàng) sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để Chính phủ và NHNNVN ban hành những
văn bản dưới luật để định hướng và điều hành hiệu quả nguồn vốn cho nền kinh tế mà
không bị coi là vi phạm nguyên tắc tự do kinh doanh.
4. Việc bổ sung thư tín dụng vào hoạt động cấp tín dụng của NHTM (điểm e,
Khoản 3 Điều 97 Dự thảo) vào nhóm nghiệp vụ cấp tín dụng của NHTM không phải là
điểm mới hay mở rộng phạm vi hoạt động cấp tín dụng. Thật vậy, trong Luật các TCTD
hiện hành đã giải thích: “Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân
sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc
có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo
lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác”.
Xét về bản chất kinh tế - pháp lý thì thư tín dụng là một nghiệp vụ cấp tín dụng
do Ngân hàng phát hành cam kết với người thụ hưởng LC sẽ thanh toán cho người thụ
hưởng hoặc chấp nhận hối phiếu khi người thụ hưởng xuất trình bộ chứng từ theo yêu
cầu. Tương tự bảo lãnh ngân hàng, sau khi thực hiện nghĩa vụ thanh toán hoặc chấp
nhận hối phiếu, NHPH sẽ ghi nợ cho khách hàng. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong
thời gian cũng khẳng định bản chất của LC là một nội dung của cấp tín dụng. Trong các
hướng dẫn của NHNNVN, khi xác định tổng dư nợ cấp tín dụng và về các hạn mức,
giới hạn an toàn thì thì giá trị thư tín dụng thuộc tổng dư nợ cấp tín dụng. Việc ghi nhận
nghiệp vụ phát hành thư tín dụng cho khách hàng là một nghiệp vụ của cấp tín dụng chỉ
là xác nhận lại hoặc làm rõ hơn chứ không phải là một quy định mới, hoàn toàn không
dẫn đến một biến động nào trong hoạt động của các NHTM sau khi Dự thảo được thông
qua và có hiệu lực thi hành.
5. Bổ sung hoạt động dịch vụ ngân quỹ, ủy thác, nhận ủy thác, giao đại lý, làm
đại lý. Điều 106 Luật Các TCTD hiện hành, quy định: “Ngân hàng thương mại được
quyền ủy thác, nhận ủy thác, đại lý trong lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng,
kinh doanh bảo hiểm, quản lý tài sản theo quy định của Ngân hàng Nhà nước” Sau đó,
NHNNVN đã ban hành các Thông tư số 30/2014/TT-NHNN ngày 06 tháng 11 năm
2014 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định về ủy thác và nhận ủy thác của tổ
chức; Thông tư số 14/2016/TT-NHNN ngày 30 tháng 06 năm 2016 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2014/TT-NHNN
ngày 06/11/2014.
Trong thời gian qua, hoạt động ủy thác là nội dung thu hút sự quan tâm và tranh
luận đa chiều cũng là lĩnh vực phát sinh nhiều sai phạm trong thực tiễn áp dụng. Những
ý kiến dựa vào quy định: “Ngân hàng thương mại được quyền ủy thác, nhận ủy thác,
đại lý trong lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng” để cho rằng NHTM có quyền
8
ủy thác cho bất kỳ chủ thể nào để thực hiện bất kỳ hoạt động nào là không chính xác.
Bản chất của ủy thác là “việc một bên (bên ủy thác) giao vốn bằng tiền cho một bên
khác (bên nhận ủy thác) để thực hiện hoạt động như: Cho vay; Góp vốn, mua cổ phần;
Đầu tư; Mua trái phiếu doanh nghiệp... (gọi chung là đối tượng ủy thác), bên ủy thác
chịu mọi rủi ro, bên nhận ủy thác được hưởng phí ủy thác”. Điều kiện tiên quyết để
giao dịch ủy thác có hiệu lực là Bên ủy thác (NHTM) phải có quyền (được phép) thực
hiện hoạt động kinh doanh cụ thể đó. Tức là Bên ủy thác không thể ủy thác những công
việc mà chính NHTM đó không có quyền thực hiện. Việc một số NHTM chuyển giao
vốn cho nhân viên của mình để các nhân viên này gửi tiền tại các NHTM khác theo quy
chế tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn của cá nhân dưới danh nghĩa “ủy thác” theo Điều 104
Luật Các TCTD hiện hành là không phù hợp.
Như vậy, các sai phạm trên không có nguyên nhân từ phía pháp luật, cụ thể là
Luật Các TCTD mà do việc diễn giải pháp luật không chính xác.
Theo quan điểm tác giả, không nhất thiết phải sửa đổi nội dung này trong Dự
thảo mà chỉ cần NHNN ban hành thông tư hướng dẫn chi tiết hoạt động ủy thác và nhận
ủy thác, ở đó nhấn mạnh đối tượng ủy thác chỉ giới hạn trong phạm vi các hoạt động
kinh doanh mà NHTM ủy thác/ nhận ủy thác được phép thực hiện theo giấy phép có
hiệu lực tại thời điểm ủy thác.
6. Về hoạt động làm đại lý của NHTM. Thực tiễn hoạt động của các NHTM
trong thời gian qua cho thấy một vài trường hợp NHTM lạm dụng vị thế của mình khi
thực hiện hoạt động đại lý bảo hiểm với mục đích trục lợi. Chúng tôi cho rằng, pháp
luật ngân hàng (Luật Các TCTD) không thể mở rộng phạm vi điều chỉnh của mình sang
lĩnh vực đại lý bảo hiểm để ngăn chặn tình trạng này mà thuộc phạm vi điều chỉnh của
pháp luật chuyên ngành (pháp luật bảo hiểm). Trong phạm vi thẩm quyền của
NHNNVN khi ban hành thông tư hướng dẫn và cấp phép NHTM làm đại lý trong lĩnh
vực hoạt động ngân hàng, bảo hiểm theo Điều 106 Luật Các TCTD hiện hành (tương
ứng Điều 104 Dự thảo) cần xem xét áp dụng khái niệm “người có liên quan” để nhận
diện và ngăn ngừa các giao dịch nội bộ với mục đích trục lợi và lạm dụng vị thế, ảnh
hưởng để thu lợi bất chính từ công việc đại lý.
7. Về thuật ngữ “góp vốn, mua cổ phần”. Điều 103 Luật Các TCTD hiện hành
và tương ứng ở Điều 102 Dự thảo đều sử dụng thuật ngữ “góp vốn, mua cổ phần” và
theo giải thích tại khoản 24, Điều 410 là chưa bao quát tất cả các hoạt động đầu tư vốn
10 khoản 24, Điều 4 Luật Các TCTD giải thích: “Góp vốn, mua cổ phần là việc tổ chức tín dụng góp vốn cấu thành
vốn điều lệ, mua cổ phần của các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng khác, bao gồm cả việc cấp vốn, góp vốn vào
công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng; góp vốn vào quỹ đầu tư và ủy thác vốn cho các tổ chức khác
góp vốn, mua cổ phần theo các hình thức nêu trên
9
của NHTM. Một số hoạt động như nhận chuyển nhượng phần vốn góp; chuyển nợ thành
vốn; mua các loại trái phiếu chuyển đổi, mua quyền mua cổ phần, kể cả việc góp vốn
vào các công ty đầu tư đầu tư chứng khoán....bị bỏ sót. Việc liệt kê tên gọi sẽ không thể
bao quát hết mọi hoạt động đầu tư vốn. Do vậy, thay vì liệt kê theo tên gọi các hoạt
động đơn lẻ (góp vốn, mua cổ phần) thì sử dụng thuật ngữ “đầu tư vốn” và phần giải
thích từ ngữ sẽ định nghĩa bao quát hoạt động này.
8. Do trật tự và vị trí các cụm từ trong quy định tại Khoản 2 Điều 103 Luật Các
TCTD hiện hành như sau: “Ngân hàng thương mại phải thành lập hoặc mua lại công
ty con, công ty liên kết để thực hiện hoạt động kinh doanh sau đây:...” nên có nhiều
cách hiểu không chính xác quy định này. Xét ở phương diện tổng thể, có thể “đoán” ý
định của nhà làm luật là: “Khi có nhu cầu/ hội đủ điều kiện để kinh doanh các hoạt
động .... thì NHTM không được TRỰC TIẾP kinh doanh mà PHẢI thành lập công ty
con, công ty liên kết để các công ty này thực hiện các hoạt động kinh doanh đó”. Do
vậy, để tránh nhầm lẫn khi diễn giải và áp dụng, Dự thảo nên làm rõ, ví dụ: “Khi có nhu
cầu kinh doanh một trong các lĩnh vực sau đây, NHTM phải thành lập công ty con, công
ty liên kết.....” hoặc “để thực hiện các hoạt động kinh doanh dưới đây, NHTM phải
thành lập công ty con, công ty liên kết...”
9. Sử dụng vốn của NHTM để đầu tư vào các lĩnh vực khác. Quy định NHTM
được góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm,
chứng khoán, kiều hối, kinh doanh ngoại hối, vàng, bao thanh toán, phát hành thẻ tín
dụng, tín dụng tiêu dùng, dịch vụ trung gian thanh toán, thông tin tín dụng (mục b khoản
4 điều 103 Luật các TCTD hiện hành, tương ứng khoản 4 Điều 102 Dự thảo11 là quy
định còn mơ hồ, có thể gây nhầm lẫn trong áp dụng.
Thứ nhất, cùng lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, chứng khoán nhưng khoản 2 Điều
104 Dự thảo quy định: “NHTM PHẢI thành lập, mua lại công ty con, công ty liên kết”;
Khoản 4 Điều 104 Dự thảo quy định: “NHTM ĐƯỢC góp vốn mua cổ phần của doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực….”. Mặc dù Dự thảo có sự “chốt chặn” bằng cách trao
thẩm quyền cho NHTNNVN tại khoản 5 Điều 104 Dự thảo12 nhưng rõ ràng, nếu
NHTM nắm giữ vượt tỷ lệ 11% ( công ty liên kết) hoặc trên 50% ( công ty con) của
11 4. Ngân hàng thương mại được góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực sau đây:
a) Bảo hiểm, chứng khoán, kiều hối, kinh doanh ngoại hối, vàng, bao thanh toán, phát hành thẻ tín dụng, tín dụng
tiêu dùng, dịch vụ trung gian thanh toán, thông tin tín dụng;
b) Lĩnh vực khác không quy định tại điểm a khoản này. 12 Khoản 5 Điều 104 Dự thảo: “5. Việc thành lập, mua lại công ty con, công ty liên kết theo quy định tại khoản 2
và khoản 3 Điều này và việc góp vốn, mua cổ phần của ngân hàng thương mại theo quy định tại điểm b khoản 4
Điều này phải được sự chấp thuận trước bằng văn bản của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước quy định
cụ thể điều kiện, hồ sơ, trình tự, thủ tục chấp thuận.
Điều kiện, thủ tục và trình tự thành lập công ty con, công ty liên kết của ngân hàng thương mại thực hiện theo quy
định của pháp luật có liên quan.”