Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC GÓP Ý SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
PREMIUM
Số trang
185
Kích thước
3.0 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1698

KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC GÓP Ý SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI

KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC

GÓP Ý SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU

CỦA LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NGÀY 08 THÁNG 11 NĂM 2023

CHƯƠNG TRÌNH HỘI THẢO KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI

“GÓP Ý SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN

DỤNG”

---------------------------

Thời gian: 8h00, Thứ Tư, ngày 08/11/2023

7:50 – 8:00 Tiếp đón đại biểu

8:00 – 8:10 Chào mừng các diễn giả và khách mời

8:10 – 8:20

Khai mạc hội thảo

PGS. TS. Hà Thị Thanh Bình

Trưởng Khoa Luật Thương Mại - Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh

Phiên 1

Chủ tọa:

- PGS. TS. Hà Thị Thanh Bình, Trưởng Khoa Luật Thương mại.

- PGS. TS. Nguyễn Văn Vân, Nguyên Trưởng Khoa Luật Thương mại.

- TS. Phan Thị Thành Dương, Trưởng Bộ môn Luật Tài chính – Ngân

hàng – Thuế, Khoa Luật Thương mại.

8:20 – 8:35

“Góp ý sửa đổi bổ sung các quy định về phạm vi hoạt động

của ngân hàng thương mại”

PGS.TS. Nguyễn Văn Vân

Khoa Luật Thương Mại - Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh

8:35 – 8:50

“Một số góp ý nhằm hoàn thiện dự thảo Luật các tổ chức

tín dụng (sửa đổi)”

ThS. Trần Thanh Bình, Nguyễn Phú Kim Thư, Trần

Ngọc Thanh Nguyên

Công Ty Luật TNHH Lee & Ko Việt Nam

8:50 – 9:05

“Góp ý sửa đổi, bổ sung Luật các tổ chức tín dụng –

nhìn từ góc độ chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt

Nam”

Trần Ngọc Thụy

Phòng Pháp chế, Ngân hàng Cathay United Bank – Chi

nhánh Tp. HCM

9: 05 – 9:40 Thảo luận

Chủ tọa:

- PGS. TS. Hà Thị Thanh Bình, Trưởng Khoa Luật Thương mại.

- PGS. TS. Nguyễn Văn Vân, Nguyên Trưởng Khoa Luật Thương

mại.

- TS. Phan Phương Nam, Phó Trưởng Khoa Luật Thương mại.

9:40– 09:55

“Hoàn thiện pháp luật về tổ chức tài chính vi mô”

TS Nguyễn Xuân Bang

Phó trưởng khoa Luật, Đại học công nghiệp TP HCM

09:55-10:10

10:10-10:25

10:25 – 11:00 Thảo luận

“Tác động của dự thảo luật các tổ chức tín dụng mới lên

hoạt động xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại”

Ths Văn Thành Khánh Linh

Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Bản Việt

“Cơ sở khung pháp lý điều chỉnh hoạt động đại lý ngân

hàng”

Ths Nguyễn Thị Thương - Ths Lê Thị Ngân Hà

Khoa Luật Thương Mại - Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh

11:00 – 11:10

Phát biểu kết luận & Bế mạc hội thảo:

PGS. TS. Nguyễn Văn Vân

Khoa Luật Thương Mại - Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh

MỤC LỤC

Góp ý sửa đổi, bổ sung các quy định về phạm vi hoạt động của Ngân

hàng thương mại

PGS. TS. Nguyễn Văn Vân

1

Bàn về một số bất cập, hạn chế trong dự thảo Luật các tổ chức tín dụng

và kiến nghị hoàn thiện

TS. Phan Phương Nam

11

Góp ý sửa đổi, bổ sung Luật các tổ chức tín dụng-Nhìn từ góc độ chi

nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam

Trần Ngọc Thuỵ

21

Một số góp ý nhằm hoàn thiện dự thảo Luật các tổ chức tín dụng (sửa

đổi)

ThS. Trần Thanh Bình, Nguyễn Phú Kim Thư, Trần Ngọc Thanh Nguyên

30

Hoàn thiện pháp luật về tổ chức tài chính vi mô

TS. Nguyễn Xuân Bang, ThS. Hoàng Văn Thành

43

Người đại diện theo pháp luật của tổ chức tín dụng theo quy định của

Luật các tổ chức tín dụng và luật doanh nghiệp 2020

Nguyễn Thu Thuỷ

50

Kiểm soát giao dịch có khả năng tư lợi trong hoạt động của ngân hàng

thương mại và một số góp ý hoàn thiện dự thảo Luật các tổ chức tín

dụng sửa đổi

ThS. Trần Linh Huân, Lê Thị Châu Giang

59

Đề nghị bổ sung quy định liên quan đến chế định tài sản bảo đảm vào

Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi

ThS. Thái Văn Đoàn

70

Góp ý quy định về quyền thu giữ tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng

trong dự thảo Luật các tổ chức tín dụng (sửa đổi)

TS. Trương Thị Tuyết Minh

79

Thực trạng và một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật các tổ chức tín

dụng về vấn đề xử lý nợ xấu

ThS. Nguyễn Thị Hoài Thu

91

Tác động dự thảo Luật các tổ chức tín dụng mới lên hoạt động xử lý

nợ xấu của ngân hàng thương mại

102

ThS. Văn Thành Khánh Linh

Quy định về xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng theo dự thảo Luật

các tổ chức tín dụng sửa đổi và một số góp ý hoàn thiện

ThS. Trần Linh Huân, Lê Phạm Anh Thơ

116

Quy định pháp luật về cung ứng dữ liệu cá nhân trong hoạt động ngân

hàng

ThS. Lê Thị Ngân Hà, Nguyễn Văn Dương

127

Pháp luật về bảo mật thông tin khách hàng của tổ chức cung ứng dịch

vụ trung gian thanh toán và kinh nghiệm từ pháp luật Hoa Kỳ

ThS. Nguyễn Thị Bích Mai

142

Rủi ro về bảo mật thông tin đối với việc định danh khách hàng điện tử

(eKYC) trong hoạt động ngân hàng – kinh nghiệm từ nước ngoài và

bài học cho Việt Nam

Nguyễn Thái Thảo Vy, Nguyễn Thái Hà, Nguyễn Thị Minh Nguyệt, Phùng

Lê Bảo Ngọc

156

Cơ sở thiết lập khung pháp lý điều chỉnh hoạt động đại lý ngân hàng

ThS. Nguyễn Thị Thương, ThS. Lê Thị Ngân Hà

165

1

GÓP Ý SỬA ĐỔI BỔ SUNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ PHẠM VI HOẠT ĐỘNG

CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

PGS.TS. Nguyễn Văn Vân

Khoa Luật Thương mại, Trường Đại học Luật Tp HCM

Abstract: The article analyses and compare the regulations of the scope of

activity for commercial banks under the Law on Financial Institutions 2010, as amended

on 2017 with Draft of Law on Financial Institutions (as amended). Through identifying

the shortcomings and limitations in the application of the current Law on Financial

Institutions, in contingent with comparison and evaluation of foreseeable impact, the

author suggests some recommendations to enhance the Draft of Law on Financial

Institutions (as amended).

Keywords: banking activity; commercial banks; issuing credits, trust; capital

investment.

Tóm tắt: Bài viết phân tích so sánh các quy định về phạm vi hoạt động của ngân

hàng thương mại trong Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi bổ sung năm 2017

với Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi). Thông qua việc nhận diện các bất cập,

hạn chế từ thực tiễn áp dụng Luật Các tổ chức tín dụng hiện hành, kết hợp phân tích so

sánh, đánh giá dự báo tác động tác giả đề xuất một số ý kiến để hoàn thiện Dự thảo Luật

các TCTD (sửa đổi).

Từ khóa: Hoạt động ngân hàng; ngân hàng thương mại; cấp tín dụng, ủy thác

ngân hàng; đầu tư vốn

Mở đầu: Ngân hàng thương mại (NHTM) là một doanh nghiệp, được thành lập

để thực hiện các hoạt động kinh doanh thương mại. Tuy nhiên, xuất phát từ những đặc

trưng, vị trí và vai trò của hoạt động ngân hàng nên pháp luật phải phân định và giới

hạn phạm vi hoạt động của các tổ chức tín dụng nói chung và ngân hàng thương mại

nói riêng. Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 được Quốc hội thông qua ngày

16/6/2010, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011, được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số

17/2017/QH14 ngày 20/11/2017 (“Luật Các TCTD hiện hành”) đã quy định khá chi tiết

về hoạt động của các NHTM1

. Luật Các TCTD hiện hành đã hoàn thành sứ mệnh của

mình sau 13 năm thực hiện. Luật các TCTD hiện hành đáp ứng được yêu cầu quản lý

1 Luật Các TCTD 2010, sửa đổi bổ sung 2017 đã thiết kế 01 chương độc lập (chương IV) để quy định về hoạt

động của TCTD nói. Cấu trúc chương 4, gồm mục 1: những quy định chung, tương ứng các mục còn lại (2,3,4

vat 5) là các quy định đặc thù cho từng loại hình tổ chức tín dụng.

2

và định hướng cho hoạt động, phát triển các TCTD trong một thời kỳ khá dài, góp phần

tạo sự ổn định về môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng2

.

Thực hiện Nghị quyết số 63/2022/QH15 ngày 16/6/2022 của Quốc hội và Nghị

quyết số 33/2023/UBTVQH15 ngày 17/3/2023 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Ban

soạn thảo Dự án Luật Các TCTD (sửa đổi) (“Dự thảo”) công bố để lấy ý kiến đóng

góp3

.

Theo Tờ trình số 270/TTr – CP, ngày 22 tháng 05 năm 2023 của Chính phủ gửi

Quốc Hội thì Dự thảo Luật Các TCTD (sửa đổi) chủ yếu tập trung ở khâu tăng cường

quản lý, giám sát và quản trị nội bộ mà chưa có những sửa đổi mang tính đột phá trong

các quy định về phạm vi hoạt động của các TCTD nói chung và của NHTM nói riêng.

Một vài nội dung liên quan đến hoạt động TCTD, nhưng tập trung cho mục đích “tạo

lập hành lang pháp lý cho việc cung ứng dịch vụ ngân hàng qua phương tiện điện tử,

thúc đẩy chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng như bổ sung quy định điều chỉnh

hoạt động cấp tín dụng bằng phương tiện điện tử tại các quy định về quy định nội bộ,

quy định về xét duyệt cấp tín dụng, quy định về lưu trữ hồ sơ tín dụng”.

Do vậy, bài viết này nhằm góp thêm một số bình luận và nhận định về những

quy định về phạm vi hoạt động của các ngân hàng thương mại. Bằng phương pháp so

sánh luật học và phương pháp phân tích – tổng hợp, tác giả phân tích so sánh các nội

dung pháp lý về hoạt động của các NHTM theo Luật Các TCTD hiện hành đồng thời

đánh giá dự báo tác động các nội dung sửa đổi (mới) trong Dự thảo.

Nội dung các góp ý:

1. Về nguyên tắc xác định phạm vi hoạt động kinh doanh của các ngân hàng

thương mại. Dự thảo tiếp tục duy trì nguyên tắc giới hạn phạm vi kinh doanh và chế độ

cấp phép. Thông qua kỹ thuật chọn – cho, tại khoản 2 Điều 90 Luật hiện hành, tương

ứng khoản 2 Điều 89 Dự thảo khẳng định: “Tổ chức tín dụng không được tiến hành bất

kỳ hoạt động kinh doanh nào ngoài các hoạt động ngân hàng, hoạt động kinh doanh

khác ghi trong Giấy phép được Ngân hàng Nhà nước cấp cho tổ chức tín dụng”.

Trên nguyên tắc đó, hoạt động của NHTM có thể tạm chia thành các nhóm:

Nhóm 1: Những hoạt động ngân hàng cơ bản (huy động vốn/ cấp tín dung, cung

cấp dịch vụ thanh toán qua tài khoản, ...) được quy định tại Điều 97 và cụ thể hóa từ

Điều 98 đến Điều 105 Dự thảo. Các NHTM đương nhiên được thực hiện tất cả hoạt

2 NHNNVN (2023) Báo cáo số 55/2023/BC-NHNH ngày 22 tháng 5 năm 2023 Tổng kết thi hành Luật Các tổ

chức tín dụng năm 2010 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng năm 2017 3 Trong bài viết này, tác giả sử dụng Dự thảo ngày 01/8/2023 từ website: Dự thảo online (quochoi.vn), truy cập

ngày 25/10/2023

3

động thuộc nhóm này sau được cấp Giấy phép thành lập và hoạt động (mà không cần

các “giấy phép con”) bởi lẽ đây là các hoạt động ngân hàng cơ bản của NHTM.

Nhóm 2: Những hoạt động kinh doanh mà NHTM chỉ được thực hiện sau khi

NHNNVN cấp phép, hoặc phải tuân thủ các thủ tục, quy trình theo hướng dẫn của

NHNN. Cần nhấn mạnh rằng, NHNNVN chỉ có quyền cho phép các hoạt động kinh

doanh đã được ghi nhận trong Luật Các TCTD, mà không phải bất kỳ hoạt động nào.

Nói cách khác, NHTM chỉ có thể kinh doanh một hoạt động nào đó thuộc nhóm (2)

phải hội đủ 2 điều kiện: (a) Luật các TCTD có trực tiếp quy định dành cho NHTM; và

(b) Có Giấy phép (riêng) do NHNNVN cấp hoặc một hình thức tương tự.

Nhóm 3: Những hoạt động mà khi thực hiện phải thành lập công ty con, công ty

liên kết như: Bảo lãnh phát hành chứng khoán, môi giới chứng khoán; quản lý, phân

phối chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán; quản lý danh mục đầu tư chứng khoán và mua,

bán cổ phiếu; cho thuê tài chính; bảo hiểm. Nếu cho rằng đây là hoạt động kinh doanh

của NHTM là không chính xác vì theo quy định pháp luật thì khi có nhu cầu thực hiện

một trong các lĩnh vực kinh doanh này, NHTM phải thành lập công ty con, công ty liên

kết. Các công ty được thành lập và hoạt động theo pháp luật chuyên ngành. Về mặt

pháp lý, chủ thể kinh doanh các hoạt động này là các công ty chứng khoán/ công ty bảo

hiểm…. NHTM chỉ là nhà đầu tư vốn/ chủ sở hữu toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ.

Nhóm 4: Những hoạt động mà NHTM không được thực hiện. Theo khoản 2 Điều

90 Luật Các TCTD hiện hành, tương ứng khoản 2 Điều 89 Dự thảo thì “Tổ chức tín

dụng không được tiến hành bất kỳ hoạt động kinh doanh nào ngoài các hoạt động ngân

hàng, hoạt động kinh doanh khác ghi trong Giấy phép được Ngân hàng Nhà nước cấp

cho tổ chức tín dụng”. Xét về kỹ thuật lập pháp đây là loại quy phạm pháp luật cấm -

ngoại trừ (chọn – cho). Trong danh mục cho phép không có hoạt động kinh doanh bất

động sản, đương nhiên HNTM không được kinh doanh bất động sản. Tuy vậy, tại điều

132 Luật Các TCTD hiện hành, tương ứng Điều 132 Dự thảo, các nhà làm luật lại tiếp

tục sử dụng kỹ thuật cấm- ngoại trừ khi lại quy định: “Tổ chức tín dụng không được

kinh doanh bất động sản, trừ các trường hợp sau đây4

:…..: Sự tồn tại quy định này có

thể giải thích là nhà làm luật muốn nhấn mạnh rằng TCTD không được kinh doanh bất

4 Điều 132: Tổ chức tín dụng không được kinh doanh bất động sản, trừ các trường hợp sau đây:

1. Mua, đầu tư, sở hữu bất động sản để sử dụng làm trụ sở kinh doanh, địa điểm làm việc hoặc cơ sở kho tàng

phục vụ trực tiếp cho các hoạt động nghiệp vụ của tổ chức tín dụng.

2. Cho thuê một phần trụ sở kinh doanh chưa sử dụng hết, thuộc sở hữu của tổ chức tín dụng.

3. Nắm giữ bất động sản do việc xử lý nợ vay. Trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày quyết định xử lý tài sản bảo

đảm là bất động sản, tổ chức tín dụng phải bán, chuyển nhượng hoặc mua lại bất động sản này để bảo đảm tỷ lệ

đầu tư vào tài sản cố định và mục đích sử dụng tài sản cố định quy định tại Điều 140 của Luật này.

4

động sản, nhưng xét về kỹ thuật lập pháp thì việc nhấn mạnh này là thừa và có thể gây

nhầm lẫn là NHTM chỉ bị cấm trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản.

Mặc khác, Điều 132 Luật Các TCTD hiện hành, tương ứng Điều 131 Dư thảo

nằm trong chương V “Các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD” mà

không phải là chương IV “Hoạt động của các TCTD”, sẽ tạo những nhầm lẫn nhất định

trong áp dụng pháp luật.

2. Dự thảo kế thừa các quy định hiện hành trong Luật các TCTD, đã phân biệt

rõ phạm vi hoạt động của từng loại TCTD, giữa nhóm TCTD là NH và TCTD phi ngân

hàng, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô…. Tuy nhiên, nhóm các chủ thể

không phải là các TCTD nhưng có tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào hoạt động thanh

toán không bằng tiền mặt chưa được Dự thảo bổ sung.

Thật vậy, hiện nay các chủ thể cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử cho khách

hàng là các tổ chức, cá nhân không chỉ các ngân hàng thương mại mà có các tổ chức

kinh tế (không phải là TCTD) được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép thực hiện

dịch vụ trung gian thanh toán5

, bao gồm: (a) dịch vụ cung ứng hạ tầng thanh toán điện

tử (dịch vụ chuyển mạch tài chính, dịch vụ bù trừ điện tử và dịch vụ cổng thanh toán

điện tử) và (b) dịch vụ hỗ trợ dịch vụ thanh toán (dịch vụ hỗ trợ thu hộ, chi hộ, dịch vụ

hỗ trợ chuyển tiền điện tử và dịch vụ ví điện tử) 6

. Mỗi chủ thể tham gia hệ thống thanh

toán có vị trí, vai trò, chức năng mục tiêu rất khác nhau. Quyền và quyền nghĩa vụ, trách

nhiệm pháp lý của các mỗi nhóm chủ thể này là khác nhau, phụ thuộc vào từng phương

thức thanh toán. Mặc dù, các chủ thể này không phải là TCTD nhưng đã đến lúc cần

khẳng định địa vị pháp lý của các chủ thể này trong đạo luật mà không chỉ quy định

trong các thông tư của NHNNVN. Chỉ khi định vị được vị trí pháp lý, quyền và nghĩa

vụ của mỗi chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về thanh toán điện tử thì mới xác định

được chủ thể bị tác động bởi các rủi ro pháp lý, phân định yếu tố lỗi và xác định chính

xác trách nhiệm bồi thường thiệt hại kể cả các trách nhiệm pháp lý khác trước khách

hàng sử dụng dịch vụ.

3. Về phân bổ nguồn vốn trong hoạt động cấp tín dụng từ các NHTM cho nền

kinh tế. Hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay khá đa dạng về loại hình, có phân định

rạch ròi nhóm TCTD hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận (trong đó có NHTM) với nhóm

5 Theo số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tính đến 02/7/2021 có 43 tổ chức không phải là ngân

hàng được nhnn cấp giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán. Xem: NHNN - Các tổ chức

CUDVTGTT không phải là ngân hàng (sbv.gov.vn) cập nhật 6 Thông tư số 39/2014/TT-NHNN ngày 11 tháng 12 năm 2014 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh toán đã được sửa đổi, bổ sung bởi:Thông tư số 20/2016/TT-NHNN ngày

30 tháng 6 năm 2016; Thông tư số 30/2016/TT-NHNN ngày 14 tháng 10 năm 2016 và Thông tư số 23/2019/TT￾NHNN ngày 22 tháng 11 năm 2019

5

các TCTD khác như ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân, ngân hàng chính

sách xã hội, tổ chức tài chính vi mô.

Qua 13 năm thực hiện Luật Các TCTD hiện hành cho thấy:

Thứ nhất, để thực hiện mục tiêu chính sách xã hội, hợp tác, tương trợ nội bộ cộng

đồng …. trong thời gian qua đã thành lập NHCSXH VN, NHHTX, hệ thống Quỹ tín

dụng nhân dân và Tổ chức tài chính vi mô. Mặc dù số lượng các TCTD thuộc nhóm

này (không đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu) chiếm số lượng tương đối lớn nhưng

tiềm lực tài chính không cao, chưa đảm nhận được vai trò sứ mệnh của nó trong nên

kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Người nghèo cần vốn sản xuất kinh

doanh, thanh niên cần vốn để khởi nghiệp, doanh nghiệp vừa và nhỏ cần vốn để thực

hiện các dự án đầu tư nông nghiệp xanh, chuyển đổi số, kinh tế tuần hoàn… nhưng khó

tiếp cận nguồn vốn từ các NHTM, do không có tài sản thế chấp và các rào cản khác.

Thứ hai, tổng dư nợ tín dụng từ hệ thống NHTM cho các dự án đầu tư kinh

doanh bất động sản chiếm tỷ trọng lớn, không cân xứng. Theo tác giả Nguyễn Thị Mùi,

thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính thì, những năm vừa qua, “tăng trưởng

tín dụng của các NHTM trong lĩnh vực bất động sản đều ở mức cao hơn mức tăng

trưởng chung của nền kinh tế. Từ năm 2017 đến năm 2019, tín dụng đối với lĩnh vực v

tăng trưởng từ 19% đến 20%/năm và cao hơn tăng trưởng tín dụng chung của nền kinh

tế (2017: 18,17%; 2018: 13,89 %; 2019: 13,65%). Năm 2020 và 2021, tác động của

dịch Covid-19, dư nợ tín dụng bất động sản vẫn có sự tăng trưởng, tuy ở mức thấp hơn

(năm 2020: 12,06%, năm 2021: 15,37%), nhưng vẫn cao hơn mức tăng trưởng tín dụng

bình quân của nền kinh tế. Đến 31/12/ 2022, dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực bất động

sản của các NHTM đạt khoảng 2,58 triệu tỷ đồng, tăng khoảng 24% so với 2021. Trong

đó, dư nợ tín dụng BĐS tập trung vào mục đích tiêu dùng chiếm 68% và dư nợ đối với

hoạt động kinh doanh bất động sản chiếm 32% dư nợ tín dụng lĩnh vực bất động sản”.7

Một lý do dễ hiểu rằng các NHTM ưu tiên cấp tín dụng cho dự án bất động sản do lãi

suất cao, chi phí tín dụng thấp, tài sản thế chấp là QSD đất và bất động sản trên đất dễ

định giá và giá ổn định…. . Tuy nhiên, nhưng khi thị trường bất động sản đóng băng thì

hệ thống ngân hàng “thất thủ”, an ninh tiền tệ, sự an toàn hệ thống tài chính ngân hàng

quốc gia và tiền gửi của công chúng tại các NHTM biến thành “con tin” 8 buộc Nhà

nước dùng ngân sách (tiền thuế của dân) để giải cứu.

7 Nguyễn Thị Mùi (2023) Những năm vừa qua, tăng trưởng tín dụng của các NHTM trong lĩnh vực BĐS đều ở

mức cao hơn mức tăng trưởng chung của nền kinh tế. 8 Thuật ngữ của Pgs Ts Nguyễn Khắc Quốc Bảo (Trường Đại học kinh tế Tp HCM) sử dụng khi trả lời phóng

vấn của phóng viên. Xem thêm: Tiến Long (2023) Đừng bắt nền kinh tế làm 'con tin' để kêu gọi giải cứu bất

động sản, Báo Tuổi trẻ online ngày 09/02/2023 Đừng bắt nền kinh tế làm 'con tin' để kêu gọi giải cứu bất động

sản - Tuổi Trẻ Online (tuoitre.vn)

6

Thứ ba, chúng ta đang tuyệt đối hóa sự khác biệt trong mục tiêu của hai nhóm

TCTD; tuyệt đối hóa quyền tự do kinh doanh của các NHTM. Nhà nước chưa can thiệp

hiệu quả vào việc phân bổ tỷ trọng dư nợ tín dụng từ các NHTM cho nền kinh tế, dẫn

đến các NHTM tích tụ trong tay quyền năng gần như tự do tuyệt đối trong phân bổ

nguồn vốn tín dụng cho nền kinh tế.

Tác giả bài viết hoàn toàn chia sẻ quan điểm của Nguyễn Kiên Bích Tuyền, khi

nhận định rằng “cơ cấu tín dụng hiện nay cần được định hướng tập trung hơn nữa vào

mảng sản xuất, kinh doanh, nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển, vào các dự án đáp ứng

yêu cầu về môi trường, vào lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn” và “Việc khuyến khích

phân bổ dòng vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh, cho vay trong lĩnh vực nông

nghiệp, cho các dự án đáp ứng yêu cầu về môi trường nên được cụ thể hóa bằng các

quy định pháp luật về giới hạn tỉ lệ mức vốn tối thiểu cho các lĩnh vực này” 9

Từ thực tiễn trên, tác giả bài viết cho rằng:

Một là, có đủ cơ sở pháp lý- kinh tế để Nhà nước can thiệp, yêu cầu mỗi NHTM

phải phân bổ một tỷ lệ % tối thiểu trong tổng dư nợ tín dụng cho các dự án phát triển

nông nghiệp xanh, kinh tế tuần hoàn, khởi nghiệp, kinh tế số…Không phủ nhận nguyên

tắc tự do kinh doanh nhưng, nhưng nguyên tắc này chỉ nên giới hạn trong việc định đoạt

vốn chủ sở hữu. Đối với nguồn vốn huy động (để cấp tín dụng) thì NHTM chỉ là chủ

thể phân phối lại nguồn vốn xã hội cho nền kinh tế.

Hai là, các công cụ dự trữ bắt buộc, lãi suất kể cả việc yêu cầu các NHTM mua

các giấy tờ có giá … do NHNNVN phát hành, được áp dụng trong thời gian qua mang

lại những hiệu quả nhất định. Việc quy định các tỷ lệ tối thiểu trong tổng dư nợ tín cho

những vực cụ thể nào đó của nền kinh tế không hẳn là biện pháp hành chính hoặc trái

với nguyên tắc tự do kinh doanh;

Ba là, giải pháp để các NHTM tự nguyện thực hiện và không bị “tổn thương”

khi thực hiện các quy định này, cần thực hiện song hành cùng các biện pháp kinh tế

như miễn giảm thuế, tái cấp vốn, lãi suất đầu vào và cơ hội tiếp cận nguồn vốn tài trợ,

ủy thác theo các chương trình, dự án (bảo vệ môi trường, kinh tế tuần hoàn, khởi nghiệp,

xóa đói giảm nghèo…) của Nhà nước Việt Nam và các tổ chức tài chính.

Tóm lại, đã đến lúc cần luật hóa quy định này để có căn cứ pháp lý để định hướng

và điều tiết nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế, góp phần điều tiết và phát triển kinh tế

bền vững đồng thời để ngăn ngừa những rủi ro cho hệ thống ngân hàng. Nếu những quy

định đó được ghi nhận trong văn bản có giá trị pháp lý cao nhất (trong lĩnh vực tiền tệ,

9 Nguyễn Kiên Bích Tuyền (2018) Pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng thương mại ở Việt Nam,

Luận án tiến sỹ Luật kinh tế- Trường Đại học Luật Tp HCM.

7

ngân hàng) sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để Chính phủ và NHNNVN ban hành những

văn bản dưới luật để định hướng và điều hành hiệu quả nguồn vốn cho nền kinh tế mà

không bị coi là vi phạm nguyên tắc tự do kinh doanh.

4. Việc bổ sung thư tín dụng vào hoạt động cấp tín dụng của NHTM (điểm e,

Khoản 3 Điều 97 Dự thảo) vào nhóm nghiệp vụ cấp tín dụng của NHTM không phải là

điểm mới hay mở rộng phạm vi hoạt động cấp tín dụng. Thật vậy, trong Luật các TCTD

hiện hành đã giải thích: “Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân

sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc

có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo

lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác”.

Xét về bản chất kinh tế - pháp lý thì thư tín dụng là một nghiệp vụ cấp tín dụng

do Ngân hàng phát hành cam kết với người thụ hưởng LC sẽ thanh toán cho người thụ

hưởng hoặc chấp nhận hối phiếu khi người thụ hưởng xuất trình bộ chứng từ theo yêu

cầu. Tương tự bảo lãnh ngân hàng, sau khi thực hiện nghĩa vụ thanh toán hoặc chấp

nhận hối phiếu, NHPH sẽ ghi nợ cho khách hàng. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong

thời gian cũng khẳng định bản chất của LC là một nội dung của cấp tín dụng. Trong các

hướng dẫn của NHNNVN, khi xác định tổng dư nợ cấp tín dụng và về các hạn mức,

giới hạn an toàn thì thì giá trị thư tín dụng thuộc tổng dư nợ cấp tín dụng. Việc ghi nhận

nghiệp vụ phát hành thư tín dụng cho khách hàng là một nghiệp vụ của cấp tín dụng chỉ

là xác nhận lại hoặc làm rõ hơn chứ không phải là một quy định mới, hoàn toàn không

dẫn đến một biến động nào trong hoạt động của các NHTM sau khi Dự thảo được thông

qua và có hiệu lực thi hành.

5. Bổ sung hoạt động dịch vụ ngân quỹ, ủy thác, nhận ủy thác, giao đại lý, làm

đại lý. Điều 106 Luật Các TCTD hiện hành, quy định: “Ngân hàng thương mại được

quyền ủy thác, nhận ủy thác, đại lý trong lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng,

kinh doanh bảo hiểm, quản lý tài sản theo quy định của Ngân hàng Nhà nước” Sau đó,

NHNNVN đã ban hành các Thông tư số 30/2014/TT-NHNN ngày 06 tháng 11 năm

2014 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định về ủy thác và nhận ủy thác của tổ

chức; Thông tư số 14/2016/TT-NHNN ngày 30 tháng 06 năm 2016 của Thống đốc

Ngân hàng Nhà nước sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 30/2014/TT-NHNN

ngày 06/11/2014.

Trong thời gian qua, hoạt động ủy thác là nội dung thu hút sự quan tâm và tranh

luận đa chiều cũng là lĩnh vực phát sinh nhiều sai phạm trong thực tiễn áp dụng. Những

ý kiến dựa vào quy định: “Ngân hàng thương mại được quyền ủy thác, nhận ủy thác,

đại lý trong lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng” để cho rằng NHTM có quyền

8

ủy thác cho bất kỳ chủ thể nào để thực hiện bất kỳ hoạt động nào là không chính xác.

Bản chất của ủy thác là “việc một bên (bên ủy thác) giao vốn bằng tiền cho một bên

khác (bên nhận ủy thác) để thực hiện hoạt động như: Cho vay; Góp vốn, mua cổ phần;

Đầu tư; Mua trái phiếu doanh nghiệp... (gọi chung là đối tượng ủy thác), bên ủy thác

chịu mọi rủi ro, bên nhận ủy thác được hưởng phí ủy thác”. Điều kiện tiên quyết để

giao dịch ủy thác có hiệu lực là Bên ủy thác (NHTM) phải có quyền (được phép) thực

hiện hoạt động kinh doanh cụ thể đó. Tức là Bên ủy thác không thể ủy thác những công

việc mà chính NHTM đó không có quyền thực hiện. Việc một số NHTM chuyển giao

vốn cho nhân viên của mình để các nhân viên này gửi tiền tại các NHTM khác theo quy

chế tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn của cá nhân dưới danh nghĩa “ủy thác” theo Điều 104

Luật Các TCTD hiện hành là không phù hợp.

Như vậy, các sai phạm trên không có nguyên nhân từ phía pháp luật, cụ thể là

Luật Các TCTD mà do việc diễn giải pháp luật không chính xác.

Theo quan điểm tác giả, không nhất thiết phải sửa đổi nội dung này trong Dự

thảo mà chỉ cần NHNN ban hành thông tư hướng dẫn chi tiết hoạt động ủy thác và nhận

ủy thác, ở đó nhấn mạnh đối tượng ủy thác chỉ giới hạn trong phạm vi các hoạt động

kinh doanh mà NHTM ủy thác/ nhận ủy thác được phép thực hiện theo giấy phép có

hiệu lực tại thời điểm ủy thác.

6. Về hoạt động làm đại lý của NHTM. Thực tiễn hoạt động của các NHTM

trong thời gian qua cho thấy một vài trường hợp NHTM lạm dụng vị thế của mình khi

thực hiện hoạt động đại lý bảo hiểm với mục đích trục lợi. Chúng tôi cho rằng, pháp

luật ngân hàng (Luật Các TCTD) không thể mở rộng phạm vi điều chỉnh của mình sang

lĩnh vực đại lý bảo hiểm để ngăn chặn tình trạng này mà thuộc phạm vi điều chỉnh của

pháp luật chuyên ngành (pháp luật bảo hiểm). Trong phạm vi thẩm quyền của

NHNNVN khi ban hành thông tư hướng dẫn và cấp phép NHTM làm đại lý trong lĩnh

vực hoạt động ngân hàng, bảo hiểm theo Điều 106 Luật Các TCTD hiện hành (tương

ứng Điều 104 Dự thảo) cần xem xét áp dụng khái niệm “người có liên quan” để nhận

diện và ngăn ngừa các giao dịch nội bộ với mục đích trục lợi và lạm dụng vị thế, ảnh

hưởng để thu lợi bất chính từ công việc đại lý.

7. Về thuật ngữ “góp vốn, mua cổ phần”. Điều 103 Luật Các TCTD hiện hành

và tương ứng ở Điều 102 Dự thảo đều sử dụng thuật ngữ “góp vốn, mua cổ phần” và

theo giải thích tại khoản 24, Điều 410 là chưa bao quát tất cả các hoạt động đầu tư vốn

10 khoản 24, Điều 4 Luật Các TCTD giải thích: “Góp vốn, mua cổ phần là việc tổ chức tín dụng góp vốn cấu thành

vốn điều lệ, mua cổ phần của các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng khác, bao gồm cả việc cấp vốn, góp vốn vào

công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng; góp vốn vào quỹ đầu tư và ủy thác vốn cho các tổ chức khác

góp vốn, mua cổ phần theo các hình thức nêu trên

9

của NHTM. Một số hoạt động như nhận chuyển nhượng phần vốn góp; chuyển nợ thành

vốn; mua các loại trái phiếu chuyển đổi, mua quyền mua cổ phần, kể cả việc góp vốn

vào các công ty đầu tư đầu tư chứng khoán....bị bỏ sót. Việc liệt kê tên gọi sẽ không thể

bao quát hết mọi hoạt động đầu tư vốn. Do vậy, thay vì liệt kê theo tên gọi các hoạt

động đơn lẻ (góp vốn, mua cổ phần) thì sử dụng thuật ngữ “đầu tư vốn” và phần giải

thích từ ngữ sẽ định nghĩa bao quát hoạt động này.

8. Do trật tự và vị trí các cụm từ trong quy định tại Khoản 2 Điều 103 Luật Các

TCTD hiện hành như sau: “Ngân hàng thương mại phải thành lập hoặc mua lại công

ty con, công ty liên kết để thực hiện hoạt động kinh doanh sau đây:...” nên có nhiều

cách hiểu không chính xác quy định này. Xét ở phương diện tổng thể, có thể “đoán” ý

định của nhà làm luật là: “Khi có nhu cầu/ hội đủ điều kiện để kinh doanh các hoạt

động .... thì NHTM không được TRỰC TIẾP kinh doanh mà PHẢI thành lập công ty

con, công ty liên kết để các công ty này thực hiện các hoạt động kinh doanh đó”. Do

vậy, để tránh nhầm lẫn khi diễn giải và áp dụng, Dự thảo nên làm rõ, ví dụ: “Khi có nhu

cầu kinh doanh một trong các lĩnh vực sau đây, NHTM phải thành lập công ty con, công

ty liên kết.....” hoặc “để thực hiện các hoạt động kinh doanh dưới đây, NHTM phải

thành lập công ty con, công ty liên kết...”

9. Sử dụng vốn của NHTM để đầu tư vào các lĩnh vực khác. Quy định NHTM

được góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm,

chứng khoán, kiều hối, kinh doanh ngoại hối, vàng, bao thanh toán, phát hành thẻ tín

dụng, tín dụng tiêu dùng, dịch vụ trung gian thanh toán, thông tin tín dụng (mục b khoản

4 điều 103 Luật các TCTD hiện hành, tương ứng khoản 4 Điều 102 Dự thảo11 là quy

định còn mơ hồ, có thể gây nhầm lẫn trong áp dụng.

Thứ nhất, cùng lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, chứng khoán nhưng khoản 2 Điều

104 Dự thảo quy định: “NHTM PHẢI thành lập, mua lại công ty con, công ty liên kết”;

Khoản 4 Điều 104 Dự thảo quy định: “NHTM ĐƯỢC góp vốn mua cổ phần của doanh

nghiệp hoạt động trong lĩnh vực….”. Mặc dù Dự thảo có sự “chốt chặn” bằng cách trao

thẩm quyền cho NHTNNVN tại khoản 5 Điều 104 Dự thảo12 nhưng rõ ràng, nếu

NHTM nắm giữ vượt tỷ lệ 11% ( công ty liên kết) hoặc trên 50% ( công ty con) của

11 4. Ngân hàng thương mại được góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực sau đây:

a) Bảo hiểm, chứng khoán, kiều hối, kinh doanh ngoại hối, vàng, bao thanh toán, phát hành thẻ tín dụng, tín dụng

tiêu dùng, dịch vụ trung gian thanh toán, thông tin tín dụng;

b) Lĩnh vực khác không quy định tại điểm a khoản này. 12 Khoản 5 Điều 104 Dự thảo: “5. Việc thành lập, mua lại công ty con, công ty liên kết theo quy định tại khoản 2

và khoản 3 Điều này và việc góp vốn, mua cổ phần của ngân hàng thương mại theo quy định tại điểm b khoản 4

Điều này phải được sự chấp thuận trước bằng văn bản của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước quy định

cụ thể điều kiện, hồ sơ, trình tự, thủ tục chấp thuận.

Điều kiện, thủ tục và trình tự thành lập công ty con, công ty liên kết của ngân hàng thương mại thực hiện theo quy

định của pháp luật có liên quan.”

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!