Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

KINH DOANH NÔNG NGHIỆP- THUẾ doc
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
CHƯƠNG 5: THUẾ
1. Khái Niệm Thuế, Bản Chất Thuế, Các Hình Thức Của Thuế
1.1 . Khái niệm
Thuế ra đời với những đặc trưng cơ bản như đã trình bày ở phần
trên. Nhưng thuế là gì? Học thuyết về thuế là một bộ phận cấu thành
quan trọng của khoa học về tài chính. Học thuyết này nghiên cứu về các
quan hệ sản xuất trong sự tác động hỗ tương với lực lượng sản xuất và
kiến trúc thượng tầng. Sự đa dạng của quan hệ sản xuất - đã làm cho một
số quan hệ phân phối tách ra thành các quan hệ tài chính và từ đó hình
thành nên những mối quan hệ phân phối mang hình thức thuế có tính
độc lập tương đối.
Mặc dù còn tồn tại một số bất đồng, song hầu hết các nhà kinh tế
đều thống nhất rằng: Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc của các thể
nhân và pháp nhân, được Nhà nước qui định thông qua hệ thống pháp
luật nhằm đáp ứng các nhu cầu chi tiêu theo chức năng của Nhà nước.
Ngoài ra còn có một khái niệm thuế được OECD đưa ra: “Thuật
ngữ thuế được giới hạn trong khuôn khổ các khoản thanh toán có tính
chất cưỡng chế, không có tính chất bồi hoàn lại cho chính phủ”.
1.2 . Bản chất của thuế:
Từ nguồn gốc ra đời và khái niệm của thuế, rõ ràng thuế có bản
chất kinh tế - chính trị - xã hội rất sâu sắc.
Bản chất kinh tế của thuế thể hiện trước hết thuế là một phần thu
nhập của xã hội được tập trung để phục vụ nhu cầu chi tiêu của Nhà
nước. Kinh tế là cơ sở của thuế, thuế gắn chặt chẽ với sản xuất, kinh
doanh và kiểm soát thu nhập của mọi tổ chức và cá nhân để động viên
và điều hòa thu nhập, điều tiết kinh tế (điều tiết sản xuất và tiêu dùng).
Nguồn thu từ thuế cho ngân sách Nhà nước chhỉ có thể tăng nhiều và
nhanh trên cơ sở nền kinh tế được phát triển và đạt hiệu quả cao. Ngược
lại, qua thu thuế phải góp phần kích thích sản xuất kinh doanh phát triển,
thúc đẩy thực hành tiết kiệm về mọi mặt trong sản xuất và tiêu dùng một
cách hợp lý để tạo nguồn thu thuế ngày càng lớn hơn. Chính vì vậy nếu
Nhà nước tăng mức động viên thuế quá cao chỉ nhằm mục đích đơn
thuần tăng thu ngân sách để đáp ứng yêu cầu chi tiêu của Nhà nước mà
bỏ qua yêu cầu bảo đảm sự tăng trưởng về kinh tế thì thường là gặp thất
bại, dễ dẫn đến hậu quả xấu về nhiều mặt.
Tính chất thứ hai là tính cưỡng chế của thuế. Nó trở thành một phạm trù
độc đáo và có nét riêng. Tính cưỡng chế được thể hiện thông qua các
điều khoản pháp luật. Thuế không thể xây dựng trên và dung hòa với tư
tưởng tự nguyện; khoản thuế thu được không thể trông chờ vào thiện chí
hay nhiệt tình của dân chúng đối với Nhà nước. Thuế thể hiện ý chí toàn
dân chứ không riêng ai cả.
Đặc tính thứ ba của thuế là không có đối giá trực tiếp. Nộp thuế
cho Nhà nước không giống chi tiền mua một sản phẩm hay dịch vụ nào
đó để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng riêng tư. Nộp thuế là một nghĩa vụ
không thể thoái thác và khối lượng các lợi ích mà người nộp thuế nhận
được từ Nhà nước không liên quan gì đến khối lượng thuế đã chi trả, thì
việc trả tiền để nhận được một món hàng hoàn toàn mang tính chất tự
nguyện và thường có sự tương xứng về mặt giá trị. Sự khác biệt giữa
thuế và giá cả của hàng hóa - theo Ricahrd Goode và Luc de Wulf, hai
chuyên gia của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) - thì “Những khác biệt của
thuế và giá rất quan trọng và chúng khác biệt đến độ thuế thường được
xem như là nặng nề hơn là giá cho dù người nộp thuế có tán thành các
chi tiêu của Nhà nước, anh ta có thể không nhận thức được mối quan hệ
trực tiếp nào giữa số lượng thuế đã nộp và lợi ích cá nhân nhận được từ
các hoạt động chung của Nhà nước. Mặt khác, các người tiêu dùng tuy
có phàn nàn về giá cả tăng cao nhưng lại nhận thức được một cái gì đó
mình mong muốn. Nhưng cũng cần lưu ý là mặc dù không đối giá trực
tiếp nhưng mọi khoản thuế dân chúng đã nộp sẽ quay lại với họ bằng
nhiều con đường khác nhau thông qua chi tiêu từ ngân sách Nhà nước.
Đặc tính thứ tư của thuế là dùng vào chi tiêu công cộng. Đặc tính
này giảm nhẹ ý niệm cưỡng bách của thuế. Ngày nay, quyền lực công
cộng đã thuộc về toàn thể dân chúng, bộ máy Nhà nước do dân chúng
điều khiển, còn Nhà nước dân chủ theo nghĩa nào và ở mức độ nào, thì ở
đây không bàn đến, nên việc nộp thuế và sử dụng tiền thu từ thuế cũng
do dân chúng quyết định. Ngoài một phần cung cấp cho quản lý hành
chánh, đại bộ phận thuế thu được chuyển giao lại cho người dân khi Nhà
nước chi ngân sách cho văn hóa, thông tin, thể dục thể thao, giáo dục, y
tế, bảo trợ xã hội, cho các chương trình nghiên cứu khoa học, chống ô
nhiễm môi truờng, chống tệ nạn xã hội.
Đặc tính thứ năm của thuế là vĩnh viễn. Nộp thuế cho Nhà nước không
giống cho Nhà nước vay, nên không thể đòi lợi tức và vốn đáo hạn.
Chúng ta biết rằng thuế dùng tài trợ công chi, mà phần lớn công chi là
những khoản cấp phát, cho không. Trên ý nghĩa đó, đóng thuế cho chính
phủ là san sẻ một phần gánh nặng công chi.
Xét về bản chất, thuế là một hình thức tái phân phối thu nhập xã
hội do các doanh nghiệp và dân chúng sáng tạo, hình thành nên ngân
sách nhà nước, nhằm tài trợ các nhu cầu chi tiêu công cộng. Xét về hiện
tượng, thuế là quá trình chuyển dịch một chiều thu nhập xã hội từ khu
vực tư vào khu vực công cộng. Như vậy nộp thuế thực chất là quá trình
chuyển dịch chi tiêu tư thành chi tiêu vì lợi ích chung.
Khu vực tư bao gồm những hoạt động của các pháp nhân và thể
nhân không thuộc quyền sở hữu của chính phủ. Hoạt động của khu vực
này trước hết vì lợi ích của chính nó và dựa trên cơ chế thị trường. Khu
vực tư hoàn toàn không thể cung cấp hoặc cung cấp kém hiệu quả những
mặt hàng có tính không loại trừ hoặc không cạnh tranh trong tiêu dùng.
Đấy là thất bại của hệ thống thị trường tư.
Khu vực công bao gồm những hoạt động của các cơ quan chính phủ,
chính quyền địa phương, các đoàn thể xã hội và các doanh nghiệp nhà
nước. Hoạt động của khu vực công nhằm tạo ra các hàng hóa dịch vụ
công cộng và được ví như nỗ lực của chính quyền các cấp trong việc sửa
chữa những thất bại của thị trường, tức là trang bị cho dân chúng những
điều kiện tối thiểu khi bước vào đời sống kinh tế-xã hội mà hệ thống thị
trường tư không làm được.
Tái phân phối thu nhập xảy ra khi một tư nhân đóng một khoản
tiền thuế cho nhà nước và nhận lại không tương xứng “lợi ích” từ công
chi. Nếu tư nhân đó nhận được “lợi ích” từ công chi tương xứng số tiền
thuế anh ta đã nộp thì không có sự tái phân phối. Tái phân phối thu nhập
xã hội gồm: tái phân phối theo chiều dọc và tái phân phối theo chiều
ngang. Tái phân phối theo chiều dọc nhằm san sẻ thu nhập của các
doanh nghiệp và cá nhân giàu; tái phân phối ngang nhằm điều hòa thu
nhập giữa các doanh nghiệp và cá nhân thuộc các ngành, lĩnh vực hoặc
các giới khác nhau. Trên thực tế, những khác biệt giữa hai loại tái phân
phối nói trên rất mờ nhạt.
Tóm lại, đánh thuế là một đặc quyền chỉ thuộc về Nhà nước và thể
hiện sức mạnh của Nhà nước trong đời sống xã hội. Nhà nước dùng thuế
tái phân phối thu nhập xã hội và điều chỉnh kinh tế vĩ mô. Trong xã hội
dân chủ, mặc dù không nhận đối giá trực tiếp từ số tiền thuế nhưng dân
chúng cũng nhận được một cách gián tiếp thông qua lợi ích từ công chi.
Ở đây có điểm đáng nói, hành vi nộp thuế của người dân mang tính cụ
thể, cá nhân và trực tiếp, còn sự thụ hưởng lợi ích từ chi tiêu của chính
phủ mang tính trừu tượng công cộng và gián tiếp. Do đó, ngoài việc
hành thu thuế thật tế nhị mà minh bạch, chính phủ cần phải công bố rõ
ràng chương trình hành động của mình và tăng cường giáo dục ý thức
công dân về nghĩa vụ nộp thuế ngay từ bậc tiểu học. Như vậy, dân chúng
mới ý thức được sự cần thiết của thuế, mới xem nộp thuế là một việc
làm tự nhiên và cần thiết cho cuộc sống cộng đồng.
1.3 . Các hình thức thuế (phân loại thuế):
Thuế ra đời cùng với sự ra đời của Nhà nước. Thời kỳ đầu khi
hàng hóa chưa phát triển, thuế thường được thu bằng hiện vật. Chế độ
thu bằng hiện vật có mặt giản tiện cho người nộp thuế, làm ra thứ gì nộp
thứ ấy; và Nhà nước sử dụng ngay số thuế bằng hiện vật ấy để chi dùng
vào những nhu cầu cần thiết, thích hợp. Nhưng thu thuế bằng hiện vật có
mặt bất lợi cho việc thu nộp, bảo quản, không linh hoạt trong cả việc thu
thuế và sử dụng số thuế thu được.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
xã hội, kinh tế hàng hóa - tiền tệ ra đời và phát triển, thuế được thu bằng
tiền là chủ yếu. Thuế thu bằng tiền, các quan hệ về thuế dưới hình thức
giá trị được hình thành và ngày càng phát triển có tính hệ thống, các thứ
thuế khác nhau lần lượt ra đời làm cho thuế ngày càng đa dạng, phong
phú linh hoạt.
Sự phát triển của các hình thức thuế trong lịch sử có thể giải thích
phần lớn bởi lý do quản lý. Do đánh thuế vào hàng nhập khẩu dễ dàng
hơn là hàng hóa trong nội địa nên thuế nhập khẩu là một trong những
loại thuế xuất hiện sớm nhất. Tương tự thuế doanh thu là một loại thuế
đơn giản đánh trên tổng giá trị hàng hóa ra đời rất lâu trước thuế GTGT.
Thuế đánh vào đầu người và thuế đánh vào bất động sản cũng tương đối
dễ dàng thực thi nên đây là hai loại thuế trực thu đầu tiên được sử dụng.
Phân theo góc độ người nộp thuế thì có thể chia làm hai loại. Thuế
trực thu và thuế gián thu. Bản chất kinh tế của thuế trực thu là người nộp
thuế đồng thời là người chịu thuế. Căn cứ mức thuế qui định trong luật
thuế, người nộp thuế tự tính và trích một phần thu nhập của mình trực
tiếp nộp cho Nhà nước, tức là thuế thu trực tiếp vào thu nhập của người
nộp thuế. Ưu điểm của thuế trực thu là động viên trực tiếp vào thu nhập
của từng tổ chức, cá nhân có thu nhập cho nên đảm bảo được tính công
bằng xã hội: người có thu nhập cao thì phải nộp thuế nhiều, người có thu
nhập vừa thì phải nộp ít hơn, người không có thu nhập thì không phải
nộp thuế. Thuế trực thu còn cho phép tính đến những yếu tố có tính độc
lập với thu nhập của người nộp thuế như: hoàn cảnh bản thân; tình trạng
hôn nhân; hoàn cảnh gia đình . . . Nhưng thuế trực thu cũng có những
mặt bất lợi là: việc tính toán phức tạp hơn, dễ dẫn đến tình trạng tính
toán đúng thì nộp thuế đúng, tính toán không đúng thì nộp thuế không
đúng và thường là phải xác định rõ thu nhập thì mới thu được thuế cho
nên thường rất chậm. Nhiều trường hợp phải đến kỳ quyết toán mới thu
được đủ thuế, có trường hợp thu thiếu thì phải nộp thêm, thu thừa thì
phải thoái trả. Một trở ngại khác là thuế thu trực diện vào thu nhập của
tổ chức, cá nhân nên về tâm lý là dễ bị phản ứng. Mặt khác nếu chỉ thu
thuế trực thu thì diện quản lý thu thuế sẽ rất rộng. Tốn nhiều công sức
mà hiệu quả thấp. Chính vì vậy, để động viên vào tất cả mọi người trong