Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Kiểm tra trong giáo dục
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
***
BÀI GIẢNG MÔN HỌC
KIỂM TRA, THANH TRA
TRONG GIÁO DỤC
(Cao học chuyên ngành Quản lý giáo dục)
LƯU HÀNH NỘI BỘ
Biên soạn:
TS. Phạm Xuân Hùng
Hà Nội, 2020
2
NỘI DUNG MÔN HỌC
Chương 1: KIỂM TRA TRONG GIÁO DỤC
1.1. Các khái niệm kiểm tra, đánh giá
1.1.1. Kiểm tra
Kiểm tra trong tiếng Anh là Checking; trong Đại từ điển 1
tiếng Việt của
Nguyễn Như Ý giải thích kiểm tra là xem xét thực chất, thực tế. Theo Bửu Kế,
kiểm tra là tra xét, xem xét, là soát xét lại công việc; kiểm tra là xem xét tình
hình thực tế để đánh giá và nhận xét; kiểm tra là cung cấp những dữ kiện, thông
tin làm cơ sở cho việc đánh giá.
- Trong quản trị tổ chức: Kiểm tra là chức năng quản lý, kiểm tra việc đo
lường quá trình thực hiện kế hoạch trên thực tế, qua đó phát hiện những sai lệch
nhằm đưa ra biện pháp điều chỉnh kịp thời để đảm bảo rằng tổ chức sẽ thực hiện
được các mục tiêu kế hoạch đề ra.
- Bản chất của kiểm tra là một hệ thống phản hồi về kết quả của các hoạt
động. Các nhà khoa học giáo dục cho rằng: kiểm tra với nghĩa là nhằm thu thập
số liệu, chứng cứ, xem xét, soát xét lại công việc thực tế để đánh giá và nhận xét
(xem sơ đồ vòng liên hệ ngược kiểm tra)
Hình 1.1. Sơ đồ bản chất các kiểm tra trong giáo dục
- Trong giáo dục, kiểm tra là thuật ngữ chỉ cách thức hoặc hoạt động của
người giáo viên/giảng viên (GV) sử dụng thu thập thông tin về biểu hiện năng
lực (về kiến thức, kỹ năng và thái độ) của học sinh/sinh viên (HS, SV), kiểm tra
1 Nguyễn Như Ý (2011), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia, Thành phố
Đầu vào
(Người học; Mục
tiêu, Nội dung
Chương trình,
Nguồn lực, Định
chế giáo dục…)
Quá trình
Tổ chức thực
hiện giáo dục
và đào tạo
Đầu ra
Mục tiêu GD
Mục tiêu ĐT
Sản phẩm
Dịch vụ GD
Hệ thống
kiểm tra
3
là thu thập số liệu, chứng cứ, xem xét, soát xét lại hoạt động dạy học thực tế để
giúp đánh giá và nhận xét có đầy đủ minh chứng.
1.1.2. Những yêu cầu đối với hệ thống kiểm tra
a) Qúa trình kiểm tra (gồm 4 bước)
(1) Xây dựng các tiêu chuẩn (tiêu chuẩn chất lượng);
(2) Đo lường các nhiệm vụ theo chuẩn được xây dựng;
(3) So sánh sự khác biệt giữa thực tế các tiêu chuẩn đặt ra;
(4) Đánh giá các quy định điều chỉnh (xem hình 1.2).
Hình 1.2. Sơ đồ vòng liên hệ ngược kiểm tra
b) Những yêu cầu đối với hệ thống kiểm tra
(i) Hệ thống kiểm tra cần được thiết kế theo các kế hoạch (phản ánh kế
hoạch mà chúng theo dõi);
(ii) Kiểm tra phải mang tính đồng bộ (chất lượng của quá trình hoạt động;
chứ không chỉ chú ý đến kết quả cuối cùng);
(iii) Kiểm tra phải công khai, chính xác và khách quan;
(iv) Kiểm tra cần phù hợp với tổ chức và con người trong hệ thống;
(v) Kiểm tra cần phải linh hoạt và có độ đa dạng hợp lý;
(vi) Kiểm tra cần phải hiệu quả;
(vii) Kiểm tra cần có trọng điểm;
(viii) Kiểm tra cần được tiến hành ngay tại nơi hoạt động (không chỉ dựa
vào số liệu).
Kết quả
mong muốn
Kết quả thực
tế
Đo lường kết
quả thực tế
So sánh với
các tiêu
chuẩn
Thực hiện
điều chỉnh
Xây dựng
chương trình
điều chỉnh
Phân tích
nguyên nhân
sai lệch
Xác định các
sai lệch
4
1.1.3. Đánh giá
Đánh giá là quá trình hình thành những nhận định, phán đoán về kết quả
công việc dựa vào sự phân tích những thông tin thu được, đối chiếu với những
mục tiêu, tiêu chuẩn đề ra, nhằm đề xuất những quyết định thích hợp để cải thiện
thực trạng, điều chỉnh nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc. Theo Đại từ
điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý, đánh giá là nhận xét, bình phẩm về giá trị.
Đánh giá kết quả giáo dục, là quá trình thu thập và xử lý kịp thời, có hệ
thống thông tin về hiện trạng và hiệu quả giáo dục, căn cứ vào mục tiêu dạy học,
làm cơ sở cho những chủ trương, biện pháp và hành động trong giáo dục tiếp
theo. Đánh giá có thể thực hiện bằng phương pháp định lượng hay định tính.
Đánh giá trong giáo dục, theo Dương Thiệu Tống, là quá trình thu thập và
xử lí kịp thời, có hệ thống thông tin về hiện trạng và hiệu quả giáo dục, căn cứ
vào mục tiêu dạy học, làm cơ sở cho những chủ trương, biện pháp và hành động
trong giáo dục tiếp theo. Có thể nói rằng, đánh giá là quá trình thu thập, phân
tích và giải thích thông tin một cách hệ thống nhằm xác định mức độ đạt đến của
các mục tiêu giáo dục; đánh giá có thể thực hiện bằng phương pháp định lượng
hay định tính2
.
Đánh giá quốc gia và quốc tế
Đánh giá quốc gia: Các quốc gia đều tăng cường đánh giá cấp quốc gia ở
giáo dục bắt buộc (như SAT ở Singapore, SAT và SCAT ở Hàn Quốc, SAT,
AIMS ở Hoa Kì…) và chủ yếu vào các năng lực cơ bản là đọc, viết, làm toán…3
Đánh giá quốc tế: Các nước tạo ra một số công cụ KT đánh giá rất hữu
hiệu như: Nghiên cứu về xu thế trong Toán học và Khoa học quốc tế (Trends in
International Mathematics and Scientics - TIMSS), nghiên cứu về sự tiến bộ về
năng lực đọc hiểu quốc tế (Program in International Reading Listeracy StudyPIRLS), cuộc thi và đánh giá quốc tế đối với trường học (International
Competitions and Assessments for Schools - ICAS), chương trình ĐGHS, SV
quốc tế (Program for International Student Assessment -PISA), chương trình
chuẩn so sánh điện tử trong giáo dục(Electronic Benchmarking in Education -
EBIE) ở Australia, đã triển khai đánh giá các trường phổ thông quốc tế…
2 Dương Thiệu Tống (1995), Trắc nghiệm và đo lường thực hành thành quả học tập(phương pháp thực hành), Trường Đại
học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
3 Vũ Thị Phương Anh (2006), “Kiểm tra đánh giá để phục vụ học tập: Xu hướng mới của thế giới và bài học cho Việt
Nam”, Kỉ yếu Hội thảo khoa học “Kiểm tra đánh giá để phát huy tính tích cực của người học bậc trung học”, TP HCM
5
ICAS được triển khai bởi UNSW Global Pty Limited. UNSW Global là
một tổ chức phi lợi nhuận, cung cấp dịch vụ giáo dục, đào tạo và tư vấn thuộc
Trường Đại học New South Wales (Australia). ICAS được sử dụng trên 60 quốc
gia, cung cấp các bài KT đánh giá hàng năm về các môn Toán, Khoa học, Tiếng
Anh, viết và kĩ năng máy tính, cung cấp thông tin chi tiết về mỗi HS, SV, lớp và
trường tham gia.
1.1.4. Mối quan hệ giữa kiểm tra và đánh giá
Ở Việt Nam, Luật Giáo dục qui định tại Khoản 1, Điều 8 Luật Giáo dục
năm 2019 nêu rõ: “Chương trình giáo dục thể hiện mục tiêu giáo dục; quy định
chuẩn kiến thức, kỹ năng, yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực của người
học; phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục; phương pháp và hình thức tổ chức
hoạt động giáo dục; cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học ở
mỗi lớp học, mỗi cấp học hoặc các môn học, mô-đun, ngành học đối với từng
trình độ đào tạo”
Kiểm tra đánh giá trong giáo dục và đào tạo là những khâu rất quan trọng
trong quá trình dạy và học. Khoa học về KT ĐG của thế giới đã có bước phát
triển mạnh mẽ cả về lí luận lẫn thực tiễn, trong khi ở Việt Nam, ngành GD chỉ
mới quan tâm đến vấn đề này trong những năm gần đây. Kiểm tra đánh giá trong
giáo dục và đào tạo không chỉ là công cụ cho quản lí chất lượng GD của các cấp
quản lí và của GV mà còn là quyền lợi, niềm vui và cơ hội cho người học.
Đổi mới kiểm tra đánh giá trong giáo dục và đào tạo theo hướng tiếp cận
năng lực HS, SV là một yêu cầu cấp thiết để nâng cao chất lượng GD nói chung
và đáp ứng yêu cầu đổi mới. Một số tiêu chí so sánh giữa Kiểm tra đánh giá
trong giáo dục theo hướng tiếp cận nội dung và tiếp cận năng lực HS, SV được
nêu ở trên tuy chưa đầy đủ, nhưng có thể góp phần giúp giáo viên, giảng viên
(GV) và cán bộ quản lí (CBQL) trường học cải tiến khâu Kiểm tra đánh giá, tạo
tác động tích cực cho việc dạy và học, đồng thời thúc đẩy việc đổi mới nội dung
chương trình và phương pháp dạy học.
Hiện nay có không ít người hiểu nhầm kiểm tra đồng nhất với đánh giá
rằng khi người học được kiểm tra - được gán một điểm số nhất định thì đánh giá
đã xảy ra. Thật ra, hiểu như thế, mới chỉ là một phần của quá trình đánh giá.
Kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục có mối tương quan: kiểm tra là cách thức
là công cụ; đánh giá kết quả là mục đích. Trên thực tế, đánh giá thường được
6
dùng như một hình thức gọi ngắn của thuật ngữ kiểm tra đánh giá. Và nhiều khi
từ “đánh giá” được dùng thay thế để chỉ hoạt động kiểm tra.
1.2. Chức năng của kiểm tra, đánh giá trong giáo dục
1.2.1. Chức năng sư phạm
Chức năng sư phạm biểu hiện về giáo dục, giáo dưỡng và phát triển thể
hiện bản chất nhân bản và tiến bộ của một nền giáo dục. Kiểm tra, đánh giá tốt
người học sẽ làm sáng tỏ đúng thực trạng, định hướng điều chỉnh hoạt động dạy
học cho phù hợp đạt kết quả tốt hơn.
Thực hiện được chức năng này, kiểm tra đánh giá có thể góp phần hình
thành động cơ học tập cho người học và phát triển nhân cách người học một
cách toàn diện, cụ thể:
Thứ nhất: Động viên kịp thời người học
Động viên người học là tạo động lực thúc đẩy học sinh học tập ngày càng
hứng thú và hiệu quả hơn. Tâm lý học sư phạm chia động lực thành hai loại
chính: động lực bên ngoài (thuộc khách quan), và động lực bên trong (thuộc chủ
quan người học). Việc cho đánh giá nhận xét hay xếp hạng, xếp loại học sinh
trong đánh giá kết quả học tập được xếp vào loại hoạt động khích lệ, là nhân tố
thúc đẩy bên ngoài. Trên thực tế, việc quá đề cao các biện pháp khích lệ này
hoặc áp dụng chúng thái quá sẽ dẫn đến hậu quả về sự nhầm lẫn của kiểm tra
đánh giá (Hodgson, 2010).
Thứ hai: Góp phần phát triển toàn diện
Mục tiêu kiểm tra đánh giá và sự rõ ràng của các chuẩn mực cũng như
tiêu chí đánh giá ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và hiệu quả của việc học tập.
Giáo dục và phát triển toàn diện cho người học là mục tiêu hàng đầu.
Ngoài phát triển các năng lực cốt lõi, KTĐG góp phần phát triển cho
người học những giá trị/phẩm chất xã hội như kỹ năng giao tiếp, làm việc hợp
tác, ý thức cộng đồng, lòng tự trọng. Đây là những tố chất quan trọng đối con
người trong xã hội hiện nay.
Thứ ba: Huy động các phương pháp, công cụ đánh giá cần đa dạng (trắc
nghiệm, tự luận, học nhóm, làm đề án, trò chơi, bài tập giải quyết vấn đề….) để
kích thích người học tự bổ sung, phát triển những phẩm chất, năng lực cần thiết
cho cuộc sống.
7
1.2.2. Chức năng xã hội
Kiểm tra, đánh giá người học sẽ giúp cho việc công khai hóa (ba công
khai: chuẩn đầu ta, nguồn lực, chương trình và tài chính) kết quả giáo dục và
đào tạo của HS SV trong trường, báo cáo kết quả học tập giảng dạy trước phụ
huynh học sinh, cộng đồng doanh nghiệp, trước nhân dân, trước các cấp quản lí
giáo dục.
Chức năng xã hội thể hiện bởi năng lực lãnh đạo, quản lý Ngành của các
cấp QLGD được thể hiện qua hai phương diện: (i) phân loại người học; (ii) duy
trì và phát triển chuẩn chất lượng dạy học/giáo dục.
Phân loại người học là mục đích phổ biến của kiểm tra đánh giá giáo dục.
Người học được phân loại về trình độ nhận thức, năng lực tư duy, kiến thức, kỹ
năng, phẩm chất thái độ trên căn cứ hệ thống tiêu chí mà chương trình đào tạo
đã đề ra.
1.2.3. Chức năng kiểm soát và điều chỉnh (tự thân)
Hình 1.3. Kiểm tra đánh giá kiểm soát và điều chỉnh hoạt động dạy học
Chức năng kiểm soát và điều chỉnh hay gọi là chức năng khoa học của
kiểm tra: Bản chất của kiểm tra, đánh giá người học mang tính nhân văn rất cao
sẽ giúp cho việc đánh giá, nhận định chính xác về một mặt nào đó trong hoạt
động giáo dục và đào tạo, về hiệu quả thực nghiệm một sáng kiến cải tiến nào đó
trong công tác dạy học.
Xác định một Chu trình dạy học/giáo dục => kiểm tra đánh giá nhằm
kiểm soát việc dạy học/giáo dục => điều chỉnh, cải tiến dạy học/giáo dục là cơ
chế đảm bảo cho việc phát triển chất lượng dạy học.
Mục tiêu
giáo dục (1)
Phương pháp,
phương tiện DH
(3)
Nội dung DH
(Hoạt động) (2)
Kiểm tra
Đánh giá (4)