Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

KỊCH bản và KỊCH bản TRUYỀN HÌNH
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BÁO CHÍ TRUYỀN HÌNH www.svbaochi.net
59
KỊCH BẢN VÀ KỊCH BẢN TRUYỀN HÌNH
1. Khái niệm về kịch bản
Kịch bản bắt nguồn từ tiếng La tinh csenario, có nghĩa là văn bản kịch
hoặc văn bản viết có tính kịch dùng để chỉ một bộ phận cấu thành rất quan trọng
của tác phẩm văn học, điện ảnh hay truyền hình. Theo từ điển tiếng Việt do
Giáo sư Hoàng Phê chủ biên, Nxb Khoa học xã hội định nghĩa: “Kịch bản- đó
là vở kịch ở dạng văn bản”.
Tuy nhiên, nếu đưa ra khái niệm này vào các dạng kịch bản văn học, kịch
bản điện ảnh và kịch bản truyền hình, thì việc giải nghĩa trên đây là chưa thật
đầy đủ, đặc biệt đối với kịch bản truyền hình.
Thuật ngữ kịch bản tồn tại đã lâu. Từ dùng để chỉ một chương trình đã
được phác thảo hoặc bản tóm tắt của một tác phẩm kịch. Nó được hiểu như một
bản miêu tả sơ lược trật tự các lớp của của vở diễn. Bản thân từ “Senari” xuất
hiện thuật ngữ sân khấu “Senarius”, chỉ người đứng sau sân khấu chỉ đạo cho
các diễn viên bao giờ đến lượt họ ra biểu diễn, đồng thời theo dõi để những
hành động diễn ra kịp thời, đúng lúc.
Để tồn tại với một diện mạo phong phú và cách thức ứng dụng linh hoạt
như hiện nay, kịch bản đã có một lịch sử về nguồn gốc của nó. Kịch bản xuất
hiện cùng với sự ra đời của loại hình sân khấu kịch, cũng có thể coi nguồn gốc
của nó là kịch bản văn học. Người viết kịch bản phải biết xuất phát từ những sự
đối lập đang âm ỉ hay đã vùng trỗi dậy trong hiện thực đời sống để sáng tạo
những tình huống xung đột vừa khái quát, vừa cụ thể. Trải qua nhiều bước kế
thừa và phát triển, kịch bản dần dần đã có sự biến hoá linh hoạt để thích ứng với
từng loại hình sáng tác. Lịch sử loài người là lịch sử của những kế thừa. Điện
ảnh ra đời là sự kế thừa của nhiếp ảnh, sân khấu, văn học, điêu khắc, hội hoạ,
BÁO CHÍ TRUYỀN HÌNH www.svbaochi.net
60
âm nhạc; còn truyền hình là sự kế thừa từ điện ảnh và báo chí. Như vậy, sự ra
đời của các dạng kịch bản đều là một sự phát triển có tính kế thừa, tính chọn lọc
trên cơ sở đặc thù riêng của mỗi loại hình.
Mỗi loại hình văn học nghệ thuật, điện ảnh hay truyền hình (có thể coi
truyền hình cũng là một loại hình mang tính chất nghệ thuật, bởi truyền hình là
sự kết hợp của điện ảnh và báo chí) đều có những đặc thù riêng, đặc trưng và
tính chất riêng. Vì thế, khái niệm kịch bản đi vào từng loại hình được “biến
hoá” sao cho phù hợp với những tính chất đặc trưng riêng của nó. Do đó, nó có
nhiều hình thức biểu hiện đa dạng chứ không phải chỉ là vở kịch ở dạng vản
bản, vấn đề này chúng tôi xin đề cập phân tích ở những phần sau.
Các loại kịch bản khác nhau như vậy liệu có thể gọi chung từ gốc “kịch
bản” trong kịch bản văn học, sân khấu, điện ảnh truyền hình được hay không.
Tại sao gọi chung là kịch bản nếu giữa chúng không có nét gì chung. Điểm
chung, nét chung nhất của các loại kịch bản này là gì? Đó là tác dụng, vai trò,
chức năng của kịch bản.
So với các loại hình nghệ thuật như hội hoạ, điêu khắc, thơ văn, âm nhạc,
một đặc trưng là từ khâu ý đồ sáng tác đến hoàn thành tác phẩm có thể hoàn
toàn do công lao của người nghệ sỹ, cá nhân người nghệ sỹ. Đó là những sáng
tạo “âm thầm” của mỗi cá nhân nghệ sỹ với biến động cuộc đời. Trong khi đó,
sân khấu (kịch nói, kịch truyền thống), điện ảnh, lại là một nghệ thuật tập thể có
sự đóng góp của diễn viên, tác giả kịch bản, hoạ sỹ trang trí, nhạc sỹ, người làm
công tác hậu trường...dưới sự điều khiển của đạo diễn. Tác phẩm truyền hình
cũng là kết quả góp sức của tập thể đạo diễn, biên tập, cộng tác viên, kỹ thuật
viên, quay phim... Người tham gia làm ra sản phẩm đều phải tập trung góp phần
tạo ra sản phẩm hay nhất, tốt nhất. Đối với tính chất làm việc tập thể này, sự có
mặt của một kịch bản hết sức có ý nghĩa. Kịch bản trước hết vạch ra “đề cương”
tác phẩm, thứ hai, kịch bản đóng vai trò như một yếu tố liên hệ giữa những cá
nhân có liên quan đến công việc, liên hệ giữa yếu tố kỹ- nghệ thuật, thống nhất
BÁO CHÍ TRUYỀN HÌNH www.svbaochi.net
61
nhất hành động, các phương tiện biểu hiện ăn khớp bổ trợ cho nhau tạo nên một
chỉnh thể, một tác phẩm hoàn hảo.
Kịch bản là một vở kịch, một bộ phim, một chương trình được phác thảo,
mô hình hoá, trên văn bản với tư cách là một đề cương, hay chi tiết đến từng
chi tiết nhỏ (tuỳ theo yêu cầu của mỗi loại hình), là cơ sở chính cho “tập thể tác
giả” làm nên, hoàn thiện tác phẩm của mình.
2, Nguồn gốc kịch bản
Theo định nghĩa trên đây kịch bản là “một vở kịch dạng văn bản”, kịch
bản ra đời cùng với sự xuất hiện của loại hình kịch (hay phương thức kịch).
“Kịch thường được hiểu vừa theo nghĩa là một loại hình nghệ thuật sân
khấu, vừa có nghĩa là một kịch bản văn học”.
Như vậy nguồn gốc của kịch bản là kịch bản văn học. Nghiên cứu kịch
bản văn học qua phương thức kịch. Là một thể loại văn học nằm trong thể loại
kịch, tác phẩm kịch nói chỉ thực sự khai thác trọn vẹn khi được trình diễn trên
sân khấu. Kịch cũng là một loại hình sân khấu. Sau lao động của nhà văn
(người sang tác kịch bản văn học) là chặng đường sáng tạo thứ hai của đội ngũ
nghệ sỹ sân khấu gồm đạo diễn, diễn viên, nhạc sỹ, hoạ sỹ. Bằng những ưu thế
riêng của dàn dựng, diễn xuất, âm nhạc, trang trí...họ đã tái hiện sinh động, trực
tiếp nội dung của kịch bản văn học trên sân diễn.
Không phải bất cứ một kịch bản văn học nào cũng có điều kiện được
dàn dựng trên sân khấu. Kịch bản văn học có đầy đủ những đặc trưng riêng
trong cấu trúc hình tượng, trong phương thức biểu hiện, trong ngôn ngữ nghệ
thuật nên người ta vẫn có thể thưởng thức tác phẩm kịch bằng cách đọc kịch
bản văn học. Khác với kịch múa, kịch hát, kịch sân khấu truyền thống (như
chèo, tuồng, cải lương)... là những loại hình chỉ có thể thưởng thức được nếu
chúng được trình diễn trên sân khấu, bởi lẽ, phương tiện biểu hiện chủ yếu của
những loại hình này mang tính đặc thù cao: những động tác múa nếu đó là kịch