Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Khảo sát kĩ năng làm văn nghị luận của học sinh một số trường thpt ở quảng nam.
MIỄN PHÍ
Số trang
80
Kích thước
672.1 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1727

Khảo sát kĩ năng làm văn nghị luận của học sinh một số trường thpt ở quảng nam.

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

KHOA NGỮ VĂN

----------

VŨ THỊ THOA

Khảo sát kỹ năng làm văn nghị luận của học sinh

một số trường THPT ở Quảng Nam

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

KHẢO SÁT KỸ NĂNG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN CỦA HỌC SINH MỘT SỐ

TRƯỜNG THPT Ở QUẢNG NAM.

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả

trong khóa luận này là trung thực và chưa có ai công bố trong bất kỳ một công trình nào

khác.

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành tốt khóa luận tốt nghiệp của khóa học 2008 -2012, trước hết tôi xin

gửi lời cảm ơn chân thành đến Thạc sĩ Nguyễn Đăng Châu, giảng viên Khoa Ngữ văn,

Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình làm

khóa luận. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Khoa Ngữ văn, Trường ĐHSP-ĐHĐN đã có những

hướng dẫn cụ thể và tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành khóa luận. Cảm ơn các thầy cô

giáo ở một số trường THPT tỉnh Quảng Nam đã cung cấp ngữ liệu để tôi có thể hoàn

thành tốt khóa luận. Cảm ơn gia đình, bạn bè và người thân đã luôn ủng hộ, giúp đỡ tôi.

Mặc dù đã rất cố gắng song không tránh khỏi những sai sót. Kính mong sự đóng

góp của quý thầy cô, cùng mọi người để khóa luận của tôi hoàn thiện hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Sinh viên thực hiện

Vũ Thị Thoa

CÁC CHỮ VIẾT TẮT

THPT : Trung học phổ thông

THCS : Trung học cơ sở

SGK : Sách giáo khoa

HS : Học sinh

GV : Giáo viên

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Cơ sở lí luận :

Trong chương trình Ngữ văn THPT phân môn Làm văn là một trong ba phân môn

của môn Ngữ văn. Làm văn đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc cung cấp tri thức

và kĩ năng cơ bản về các kiểu văn bản cho học sinh. Đây là môn học mang tính chất thực

hành tổng hợp. Làm văn vận dụng kết quả tổng hợp của việc học tập hai phân môn Văn

học và Tiếng Việt để tạo lập văn bản. Nhiệm vụ chủ yếu của Làm văn trong nhà trường là

rèn luyện cho học sinh các kĩ năng làm văn như kĩ năng tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý, lập

luận, dựng đoạn... Thành thục các kĩ năng này, học sinh sẽ viết được một bài văn rõ ràng,

mạch lạc, đầy đủ ý, đúng yêu cầu của từng kiểu văn bản.

Thực hiện đúng qui trình các thao tác kĩ năng làm văn là yêu cầu rất quan trọng

nhằm viết thành công một bài văn. Kĩ năng làm văn vừa là chuỗi các thao tác hoạt động

vừa là các bước phát triển đúng hướng để giải quyết một luận đề nào đó. Chính vì vậy mà

Gớt- tơ nhà văn nổi tiếng của Đức đã quả quyết nói rằng "Tất cả đều phụ thuộc vào bố

cục". Trong phạm vi nhà trường trung học phổ thông kĩ năng này rất cần cho học sinh khi

làm bất kì bài văn nào.

1.2. Cơ sở thực tế:

Chương trình Làm văn THPT trước đây có những tiết học dành riêng cho việc lập

dàn ý. Ở mỗi kiểu văn bản đều có 1- 2 tiết lí thuyết dạy rèn luyện kĩ năng này. Thế nhưng

chương trình Làm văn hiện nay không có các tiết riêng để dạy về các thao tác kĩ năng làm

văn mà các thao tác kĩ năng đó được dạy gộp với các bài về cách làm bài văn,... Vì vậy kĩ

năng làm văn của học sinh hiện nay cũng rất hạn chế. Khi khảo sát các em làm bài kiểm

tra, chúng tôi thấy nhiều em thường bỏ qua khâu thực hiện các thao tác kĩ năng làm văn.

Khi gặp một đề văn các em chỉ bỏ ra một vài phút để đọc đề rồi cắm cúi viết. Chính vì

vậy trong bài viết của các em việc sắp xếp ý rất lộn xộn, nhiều ý trùng lặp hoặc thiếu

ý…Có nhiều trường hợp các em phát hiện thiếu ý muốn "quay lại" để bổ sung nhưng

không kịp nữa đành viết thêm vào rồi ghi bổ sung làm bài viết rời rạc chắp vá hoặc bỏ

hẳn ý đó. Đôi khi nó lại là phần rất quan trọng .

Từ những cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn trên, vấn đề đặt ra với phân môn Tập

làm văn là: Cần giúp cho học sinh có kĩ năng thực hiện các thao tác làm văn nhằm nâng

cao kĩ năng làm văn cho các em nhất là từ khi thực hiện đổi mới phương pháp dạy học.

Để mục tiêu đó thật sự có được kết quả, sau đây chúng tôi xin thực hiện đề tài “Khảo sát

kỹ năng làm văn nghị luận của học sinh một số trường THPT ở Quảng Nam” để tìm ra

những nguyên nhân và đề ra hướng khắc phục cho tình trạng chung này.

2. Lịch sử vấn đề

Làm văn ở chương trình THPT chủ yếu là văn nghị luận, văn nghị luận là loại văn

có vai trò quan trọng trong đời sống mỗi con người và cũng là loại văn có lịch sử lâu đời.

Chỉ tính riêng những bài nghiên cứu, những tài liệu dạy học và kĩ năng lập ý cho bài văn

thì rất phong phú. Dưới đây là những công trình nghiên cứu chủ yếu về kĩ năng làm văn

trong văn nghị luận.

Trần Thanh Đạm (chủ biên), (1992), Làm văn 12 và Dàn bài làm văn 12, Nxb

Giáo dục, tác giả chỉ xoay quanh kỹ năng lập ý cho bài văn nghị luận.

Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Xuân Nam, Nguyễn Quang Ninh, Cao Đức Tiến, Hà Bình

Trị (1993), Tài liệu giáo khoa thực nghiệm phân ban làm văn 10, Nxb Giáo dục Hà Nội.

Trong cuốn này, kĩ năng lập ý được đề cập đến trong phần lập dàn ý nói chung cho văn

nghị luận, tuy nhiên đó cũng chỉ là những hướng dẫn còn rất khái quát.

Nguyễn Công Lý (1997), Tập làm văn (Giáo trình dành cho sinh viên khoa Ngữ

văn Cao đẳng Sư phạm), Nxb Đà Nẵng. Tác giả khẳng định rằng để có một bài văn nghị

luận hoàn chỉnh người viết phải trải qua hai công đoạn là khâu tạo ý và khâu hành văn.

Trần Đình Sử (chủ biên), (2002), Làm văn 12, Nxb Giáo dục. Ở đây, tác giả chỉ

dẫn cụ thể về các bước lập ý, các bước lập dàn bài cho bài văn nghị luận nói chung và

nghị luận văn học nói riêng

Đỗ Ngọc Thống (chủ biên), Nguyễn Thành Thi, Phạm Minh Diệu (2007), Làm văn

(Giáo trình Cao đẳng Sư phạm), Nxb ĐHSP Hà Nội, đề cập đến việc lập ý cho bài văn

nghị luận xã hội với hai bước: (Bước 1) dựa vào yêu cầu và chỉ dẫn của đề để tìm ra vấn

đề trọng tâm và ý lớn mà bài viết cần làm sáng tỏ. (Bước 2) tìm ý nhỏ bằng cách bằng

cách đặt ra các câu hỏi, vận dụng những hiểu biết về văn học và cuộc sống xã hội để trả

lời các câu hỏi đó.

Trên đây là những tài liệu làm cơ sở lí luận để chúng tôi thực hiện đề tài “Khảo sát

kỹ năng làm văn nghị luận của học sinh một số trường THPT ở Quảng Nam”. Thực hiện

đề tài này chúng tôi mong muốn góp phần cải thiện tình hình học tập môn Làm văn của

học sinh THPT Quảng Nam nói riêng và học sinh THPT cả nước nói chung.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Miêu tả một vài nét về thực trạng và khả năng thực hiện

các thao tác làm văn của học sinh một số trường THPT Quảng Nam.

Phạm vi nghiên cứu: Xem xét giới hạn ở loại văn bản nghị luận

4. Phương pháp nghiên cứu

Với đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau.

- Phương pháp điều tra trắc nghiệm.

- Phương pháp khảo sát, thống kê.

- Phương pháp tổng hợp, khái quát.

5. Bố cục của khóa luận

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, phần Tài liệu tham khảo phần Nội dung của khóa

luận gồm 3 chương.

Chương 1: Một số vấn đề về kỹ năng làm văn nghị luận của học sinh THPT

Chương 2: Khảo sát thực trạng thực hiện qui trình các kĩ năng làm văn của học

sinh THPT Quảng Nam

Chương 3: Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng làm văn nghị luận

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ KĨ NĂNG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN CỦA

HỌC SINH THPT

1.1 Phân môn Làm văn trong chương trình Ngữ văn THPT hiện nay

1.1.1 Khái quát về văn nghị luận.

a) Khái niệm

“Trong cuộc sống ta thường bắt gặp văn nghị luận dưới dạng các ý kiến nêu ra

trong cuộc họp, các bài xã luận, bình luận, bài phát biểu ý kiến trên báo chí.

Văn nghị luận là văn được viết ra nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một tư

tưởng, quan điểm nào đó. Muốn thế, văn nghị luận phải có luận điểm rõ ràng, có lí lẽ, dẫn

chứng thuyết phục.

Những tư tưởng, quan điểm bài văn nghị luận phải hướng tới giải quyết những vấn

đề đặt ra trong đời sống thì mới có ý nghĩa”. [15, tr. 9]

Văn nghị luận có hai kiểu bài chính là nghị luận xã hội và nghị luận văn học. Nghị

luận xã hội thường tập trung nghị luận vào những vấn đề có tính xã hội như một quan

điểm, tư tưởng, một hiện tượng đời sống, một vấn đề luân lí, đạo đức, lối sống... Nghị

luận văn học là dạng bài thường tập trung nghị luận những vấn đề có tính văn học như

một vấn đề văn học, một nhận định, ý kiến về một tác phẩm văn học (thơ, truyện) hoặc

đưa ra những đánh giá về chính tác phẩm văn học...

Dù là văn nghị luận văn học hay văn nghị luận xã hội cũng phải đảm bảo tính triết

lý sâu sắc, tính biện luận mạnh mẽ và tính thuyết phục lớn lao. Văn nghị luận dùng lí lẽ

để giải thích, chứng minh hoặc tuyên truyền để người khác nghe theo, tin theo. Các lí lẽ

đưa ra phải được biện luận, tức là được phân tích, giảng giải, tổng hợp theo một trình tự

nào đó để người đọc, người nghe thông suốt, chấp nhận. Nghĩa là cái đích cuối cùng

nhằm đến của bài văn nghị luận là thuyết phục người khác bằng cái lí, cái tình.

Nét chung của hai kiểu bài này là đều lấy lập luận làm phương thức biểu đạt chính

để người viết trình bày ý kiến, quan điểm thái độ... về một vấn đề (văn học hoặc chính trị,

đạo đức, lối sống) bằng cách dùng lí lẽ và dẫn chứng nhằm giúp người đọc, người nghe

hiểu, đồng tình, ủng hộ và làm theo quan niệm, cách hiểu của mình.

Bài văn nghị luận văn học và nghị luận xã hội thường được cấu thành từ các yếu tố:

Vấn đề nghị luận, luận điểm, luận cứ và lập luận. Vấn đề nghị luận (tức là luận đề) là nội

dung được đem ra bàn luận trong bài viết. Vấn đề này được triển khai qua hệ thống luận

điểm – những ý kiến, quan điểm bàn luận xung quanh vấn đề nghị luận. Hệ thống luận

điểm bao giờ cũng được trình bày theo một trình tự nhất định và được làm sáng tỏ bằng

các luận cứ - lí lẽ và dẫn chứng cụ thể.

Văn nghị luận thiên về việc trình bày ý kiến, quan điểm và có vẻ đẹp riêng mang

tính trí tuệ. Vì thế điều quan trọng nhất của văn nghị luận là nghệ thuật lập luận nhằm bày

tỏ quan điểm ý kiến trước vấn đề nhằm tác động vào tư tưởng, tình cảm người đọc, người

nghe.

b) Những đặc trưng cơ bản của văn nghị luận

Đặc trưng cơ bản đầu tiên của văn nghị luận là vấn đề có ý nghĩa xã hội, đó chính

là nội dung nghị luận. Thành phần nội dung quan trọng để xây dựng nên bài văn nghị

luận là “vấn đề có tính xã hội”. Điều ấy có nghĩa là, vấn đề đem bàn luận không phải của

riêng ai. Vì vậy mới có hô ứng để làm cho vấn đề sáng tỏ minh bạch bằng sự phong phú,

nhiều chiều của lí lẽ và thực tế. Vấn đề xuất hiện do nhu cầu thực tiễn và lí luận. Tìm

hiểu vấn đề, xác định rõ vấn đề, phân tích lí giải vấn đề và giải quyết vấn đề một cách

khoa học là đặc trưng nghiên cứu của quá trình nghị luận. Văn nghị luận có sức mạnh hấp

dẫn và phổ biến trong đời sống con người là vì nó biết đặt “vấn đề có ý nghĩa xã hội” và

tìm cách giải quyết nó bằng lập luận nhiều chiều. Như vậy “vấn đề có ý nghĩa xã hội” là

nội dung chính của văn nghị luận. Vì thế văn nghị luận mang đậm tính chất nghiên cứu

và có tính lí luận cao.

Đặc trưng thứ hai của văn nghị luận là tính logic của văn nghị luận: Bản thân của

thuật ngữ này cho biết nghị luận là bàn bạc, phân tích, đồng tình hay một vấn đề nào đó

để tìm hiểu và thẩm định giá trị lí luận và thực tiễn của nó. Bài văn nghị luận thường

xuyên vận dụng luận lí. Điều đó đòi hỏi người làm văn nghị luận phải có kiến thức phong

phú và phải biết cách lập luận linh hoạt đó chính là tính logic trong văn nghị luận. Tính

logic trong văn nghị luận thể hiện trong việc hoàn chỉnh nguyên tắc chuẩn mực của ngôn

ngữ, hướng lời nói và viết vào những chuẩn mực đó một cách có suy nghĩ. Ngoài cú pháp

đảm bảo sự chặt chẽ trong suy nghĩ để con người hiểu nhau trong giao tiếp, văn nghị luận

còn phải vận dụng phép tu từ, chuyển nghĩa để diễn đạt đầy đủ ý tứ tạo nên phong cách

uyển chuyển của nó.

Toàn bộ quá trình lập luận trong văn nghị luận đều dựa vào khái niệm, nhận định,

luận điểm, luận cứ, luận chứng và những thao tác diễn dịch, quy nạp, suy luận từ trừu

tượng đến cụ thể và ngược lại. Tất nhiên văn nghị luận không phải là quá trình tư duy lí

luận thuần túy về những ý tưởng có sẵn mà sáng tạo ra những quan niệm, luận điểm có

tính chất lí thuyết làm công cụ để khám phá vấn đề mới hơn và phong phú hơn. Như vậy

trong văn nghị luận tư duy, ngôn ngữ và logic có quan hệ chặt chẽ và thống nhất với nhau

trong quá trình sản sinh văn bản.

Đặc trưng tiếp theo của văn nghị luận là tính chỉnh thể trong kết cấu. Một bài văn

nghị luận dù đơn giản đến đâu cũng đều mang tính chỉnh thể của một văn bản. Chỉnh thể

ấy được xây dựng và hoàn thiện bằng hệ thống ngôn ngữ phong phú kết hợp với văn

phong chính luận thấm nhuần tính nghệ thuật. Ngoài tính xác thực của vấn đề và quan

điểm, ngoài tính khách quan khoa học của quá trình lập luận, văn nghị luận còn mang

tính nghệ thuật trong khi trình bày ý kiến riêng và văn phong của người viết. Mục đích và

ý đồ trao đổi bàn bạc, vấn đề trong văn nghị luận đều hướng tới sự thống nhất, văn bản

nghị luận thành một chỉnh thể.

Văn nghị luận đạt tới tính chỉnh thể toàn vẹn nếu người viết hiểu biết tường tận

vấn đề nắm vững mục đích nghị luận và có phương tiện ngôn ngữ dồi dào, thao tác lập

luận chặt chẽ, thấu lí đạt tình tác động mạnh mẽ và thường xuyên vào trí tuệ và tỉnh cảm

trí óc và trái tim của người đọc, người nghe.

Tính chất đối thoại cũng là một trong những đặc trưng của văn nghị luận: Văn

nghị luận lấy việc đề xuất, bàn bạc, phê bình vấn đề có ý nghĩa xã hội làm nội dung chính

nên bao giờ nó cũng có “một ai đó” để giao tiếp, đối thoại. Văn nghị luận chẳng những

mang đặc điểm bàn luận mà còn theo đuổi mục đích thuyết phục người khác tin vào ý

kiến đúng đắn, có lí lẽ của lập luận minh chứng trong bài văn. Do vậy hình ảnh của người

đối thoại cũng trở thành nội dung cần quan tâm đúng mức khi viết văn nghị luận. Cảm

hứng thuyết phục bằng sự thật và chân lí trong nhận thức cuộc sống xã hội và trong văn

học thông qua nghị luận buộc người viết phải đối thoại trực tiếp hoặc gián tiếp với người

khác trước hết bằng lí lẽ.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!