Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Khảo sát ca dao cải biên trên báo tuổi trẻ cười trong ba năm 2010, 2011, 2012.
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------------
KHÓA LUÂN T ̣ ỐT NGHIÊP ĐẠI HỌC ̣
NGÀNH CỬ NHÂN VĂN HỌC
Đề tài:
KHẢO SÁT CA DAO CẢI BIÊN TRÊN BÁO TUỔI TRẺ CƯỜI
TRONG BA NĂM 2010,2011,2012
Người hướng dẫn:
TS. Trương Thị Diễm
Người thực hiện:
Nguyễn Thị Vân Anh
Đà Nẵng, tháng 5/2013
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong kho tàng văn học Việt Nam, ca dao là loại hình văn học góp phần
thể hiện rõ nét đặc trưng của văn hóa dân tộc. Được thử thách qua không gian,
thời gian, được gọt giũa bởi hàng vạn nhà thơ vô danh, ca dao Việt Nam đã trở
thành những viên ngọc quý óng ánh trong kho tàng văn học dân tộc. Ca dao đã
vận dụng mọi khả năng của ngôn ngữ dân tộc để biểu hiện một cách tinh tế, sinh
động và đầy hình tượng cuộc sống thường ngày cũng như đời sống tâm hồn
phong phú của người dân.
Ngày nay, ca dao không chỉ phổ biến trong đời sống nhân dân, trong văn
học mà còn chiếm một vị trí quan trọng trong lĩnh vực báo chí. Trong Khóa luận
này, chúng tôi tập trung khảo sát ở báo Tuổi Trẻ Cười. Với mục tiêu là đem lại
những phút thư giãn bổ ích cho bạn đọc, từ những câu ca dao quen thuộc với
nhân dân, các tác giả đã sử dụng nhiều hình thức cải biên khác nhau để diễn đạt
câu ca dao đó theo một mục đích nhất định nhằm mang lại tiếng cười sảng khoái
cho độc giả. Những bài ca dao đó thường được gọi là “ca dao cải biên”. Cũng từ
những bài ca dao cải biên đó, nội dung của báo chí mới mẻ hơn, hấp dẫn hơn,
thu hút bạn đọc hơn.
Từ lí do đó, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài “Khảo sát ca dao cải biên
trên báo Tuổi Trẻ Cười trong ba năm 2010, 2011, 2012”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ca dao cải biên trên báo Tuổi Trẻ Cười nhằm hướng đến mục đích mang
lại tiếng cười cho độc giả. Từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu
về tiếng cười trong ca dao: Nguyễn Tử Quang với “Tính chất trào lộng trong ca
dao”, tạp chí Phổ thông, số 130, 1964; Vũ Hậu Luật với “Một số bài ca dao
châm biếm”, Báo Văn nghệ, số 3, 1978; Lê Khả Sĩ với “Kế thừa, cải biên và phát
huy thơ ca dân gian trong thơ trào phúng hiện đại”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số
4, 1991; Phạm Thị Hằng, “Thủ pháp gây cười của ca dao cổ truyền người Việt
bằng cách tạo dựng mâu thuẫn”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4, 1997; Đào
Thản, Ca dao hài hước, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1998; Lê Hân, “Một vài
nhận xét nhỏ về tiếng cười trong ca dao Việt Nam”, Tập san Văn nghệ dân gian
Phú Thọ (Sở Văn hóa Thông tin và Hội Văn nghệ dân gian Phú Thọ), số 2, 1999.
Tuy nhiên, trong nguồn tư liệu chúng tôi thu thập được thì đến nay chưa
có chuyên luận hay bài viết nào khảo sát chi tiết về ca dao cải biên trong văn học
nói chung cũng như báo chí nói riêng.
Không tham vọng đi quá sâu vào việc tìm nguồn gốc xuất hiện của ca dao
cải biên hay nghiên cứu việc hình thành và phát triển của ca dao cải biên, Khóa
luận chỉ dừng lại ở việc khảo sát sự xuất hiện và giá trị của ca dao cải biên trên
phạm vi nhỏ là báo “Tuổi Trẻ Cười” trong vòng ba năm 2010, 2011, 2012.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Ca dao cải biên trên báo “Tuổi Trẻ Cười”.
- Phạm vi nghiên cứu: Toàn bộ những số báo của báo “Tuổi Trẻ Cười”
trong ba năm 2010, 2011, 2012.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với đối tượng và phạm vi nghiên cứu như trên, chúng tôi xác định nhiệm
vụ nghiên cứu của Khóa luận gồm:
- Thống kê số lượng, phân tích phạm vi biểu vật của ca dao cải biên trên
báo Tuổi Trẻ Cười trong ba năm từ năm 2010 đến năm 2012.
- Chỉ ra vai trò và chức năng của ca dao cải biên trên báo “Tuổi Trẻ Cười”
- Chỉ ra vai trò của người cải biên những câu ca dao trên những số báo của
báo “Tuổi Trẻ Cười”.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê, phân loại;
- Phương pháp so sánh đối chiếu;
- Các phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát.
6. Bố cục đề tài
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của Khóa luận gồm ba
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
Chương 2: Khảo sát ca dao cải biên trên báo “Tuổi Trẻ Cười”
Chương 3: Vai trò và chức năng của ca dao cải biên trên báo “Tuổi Trẻ Cười”
NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1 Khái niệm ca dao và một số quan niệm về ca dao của các nhà nghiên
cứu
1.1.1 Khái niệm về ca dao
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), ca dao hay còn gọi là phong dao, theo
nghĩa gốc thì ca là bài hát có khúc điệu, dao là bài hát không có khúc điệu.
Ca dao là danh từ ghép chỉ toàn bộ những bài hát lưu hành phổ biến trong
dân gian có hoặc không có khúc điệu. [7, tr.31]
Trong trường hợp này ca dao đồng nghĩa với dân ca. Do tác động của
hoạt động sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian, ca dao đã dần chuyển
nghĩa. Từ một thế kỉ nay, các nhà nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam đã
dùng danh từ ca dao để chỉ riêng thành phần nghệ thuật ngôn từ (phần lời
thơ) của dân ca (không kể những tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi). Với
nghĩa này, ca dao là thơ dân gian truyền thống. Ví dụ câu ca dao:
Làm trai quyết chí tu thân
Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo
Vốn được rút ra từ bài dân ca hát cách với những tiếng đệm, tiếng láy,
tiếng đưa hơi.
Từ sau Cách mạng tháng Tám (1945) trên sách báo nước ta đã xuất
hiện danh từ ca dao mới để phân biệt ca dao cổ (hay ca dao cổ truyền).
Ca dao mới khác với ca dao cổ về khá nhiều phương diện (về thời
gian, hoàn cảnh, lực lượng sáng tác, hệ thống đề tài, chủ đề, phương thức và
phương tiện lưu truyền, phổ biến…). Ngoài phương thức sáng tác và lưu
truyền bằng miệng của nhân dân, ca dao mới còn được sáng tác và phổ biến
bằng văn tự của các văn nghệ sĩ chuyên nghiệp hoặc nghiệp dư. Những tập
ca dao thành văn được xuất bản trong mấy chục năm qua (như ca dao kháng
chiến, ca dao chống Mĩ,…) thiên về tuyên truyền chính trị là một hiện tượng
mới chưa từng có trong lịch sử ca dao trước Cách mạng tháng Tám (1945).
Dựa vào chức năng kết hợp với hệ thống đề tài, có thể phân ca dao cổ
(hay ca dao cổ truyền) thành những loại ca dao khác nhau, như ca dao ru con,
ca dao tình yêu, ca dao về tình cảm gia đình, ca dao than thân, ca dao trào
phúng…
Theo cách hiểu thông thường thì: “Ca dao là lời của các bài hát dân ca
đã được bỏ đi tiếng đệm, tiếng láy… Sự phân biệt giữa ca dao và dân ca chỉ
là ở chỗ khi nói đến ca dao người ta thường nghĩ đến những lời thơ dân gian,
còn khi nói đến dân ca người ta thường nghĩ đến làn điệu, những thể thức hát
nhất định…
Chu Xuân Diên trong cuốn “Văn học dân gian Việt Nam” quan niệm
ca dao đã được quy định để chỉ bộ phận cốt lõi nhất, tiêu biểu nhất: đó là
những câu hát trở thành cổ truyền của nhân dân …. Tuy nhiên cách quan
niệm trên vừa rộng vừa không bao quát hết tình hình phát triển của thể loại
này.
Theo Vũ Ngọc Phan, thuật ngữ “ca dao” vốn là tên gọi Hán Việt, được
các nhà nghiên cứu Văn nghệ dân gian Trung Hoa gọi cho hai loại Dân ca
khác nhau. Sách Mao truyện viết: “Khúc hợp nhạc viết ca, đồ ca viết dao”.
Nghĩa là bài hát có nhạc đệm thì gọi là ca còn hát trơn gọi là dao. Tương ứng
theo cách gọi trên thì những bài hát nghi lễ là ca những bài hát giao duyên là
dao.
Các nhà nghiên cứu văn học dân gian nước ta cảm thấy tên gọi “ca
dao” có phần chưa hợp lí nên đã cố gắng tìm cho nó một tên gọi mới. Tuy
nhiên, gọi "ca dao" để chỉ “một thể thơ dân gian” không được thỏa đáng bởi
trong thực tế, ca dao có nhiều thể thơ như: lục bát, song thất lục bát, thể
vãn… Gọi ca dao cho “Tất cả những sáng tác thơ ca nào mang phong cách
những câu hát cổ truyền” lại quan niệm ca dao với một hàm quá rộng, bao
gồm cả ca dao mới. Gọi ca dao là “thơ dân gian” lại vô tình đồng nhất giữa
sáng tác văn học viết và văn học dân gian. Ca dao là thơ nhưng không phải
thơ bởi ca dao là “Thơ sáng tác theo điệu nói” (Trần Đình Sử), thực tế trong
kho tàng ca dao, có những bài có giá trị nghệ thuật cao, là mẫu mực cho các
nhà thơ sau này học tập nhưng cũng có bài không phải là thơ.
Như vậy theo chúng tôi, ca dao là lời ca dân gian. Lời ca là lời của các
làn điệu dân ca và các sáng tác ngâm vịnh của các nhà Nho được hòa vào
dòng chảy dân gian. Khái niệm ca dao được xem là phần lời của những câu
hát trữ tình truyền thống. Bộ phận lời đơn bắt nguồn từ các loại dân ca nghi
lễ, dân ca lao động, dân ca sinh hoạt như ru con…là những loại dân ca không
có hình thức đối đáp và các sáng tác ngâm vịnh của cá nhân được hòa vào
dòng chảy ca dao. Bộ phận lời đôi hình thành từ dân ca giao duyên là loại
dân ca có hình thức đối đáp nên một lời bao gồm một chỉnh thể các vế đối
đáp.
1.1.2 Quan niệm về tiếng cười trong ca dao của các nhà nghiên
cứu
Quan niệm về tiếng cười trong ca dao: “Tiếng cười trong ca dao” là
cách nói tắt, nói đầy đủ hơn phải là “tiếng cười trong kho tàng ca dao người
Việt”. Hay nói cách khác, “kho tàng ca dao người Việt” là chỗ xuất phát của
tiếng cười.
Một bài ca dao được gọi là ca dao cười khi có tiếng cười bật ra từ việc
tiếp nhận bài ca dao ấy. Một tiếng cười như vậy có thể tùy thuộc hoàn toàn
vào đối tượng tiếp nhận: một người trai trẻ hay người đang vui thường không
giống với một người già hay người đang buồn. Do đó, để có được sự khách
quan, mọi người đều cười được hoặc cảm nhận được tiếng cười từ ca dao,
cũng cần xác định tiếng cười ấy. Nguyên tắc của việc xác định này là cùng
cười với chủ thể sáng tạo ra tiếng cười đó. Do chủ thể sáng tạo ra tiếng cười
từ ca dao đã thuộc về quá khứ hàng trăm, hàng nghìn năm, nên cần đặt góc
nhìn vào truyền thống và thừa nhận tiếng cười của chủ thể sáng tạo (chứ
không phải của đối tượng được đề cập).
Thông thường, việc xác định một bài ca dao cười không quá khó khăn.
Trong nhiều trường hợp, có thể bằng lối cảm nhận bình thường cũng phân
định được một bài ca dao có tác dụng gây cười hay không. Bởi ca dao tuy là
một loại hình nghệ thuật ngôn từ nhưng nó gắn chặt với lời ăn tiếng nói, với
phong tục, tập quán của cộng đồng. Vì vậy, việc tiếp nhận ca dao, đối với
người công dân thuộc cộng đồng sáng tạo, lưu truyền và diễn xướng nguồn
ca dao ấy là một ứng xử đặc biệt: ứng xử trước các tác phẩm nghệ thuật đồng
thời là các cảnh huống và quan niệm thuộc quá khứ của cha ông. Nếu có
tiếng cười ở đó, thì lập tức, chúng sẽ tìm thấy một sự đồng cảm rất cao ở
người tiếp nhận với chủ thể sáng tạo (cũng gọi là chủ thể trữ tình).
Cơ chế tạo ra tiếng cười từ ca dao được một vài tác giả chú ý. Đào
Thản viết: “Những cái tức cười, những điều đáng cười, trong thực tế bao
gồm ba loại yếu tố: 1) Những sự trái ngược, tương phản, trái lôgic, oái oăm,
trớ trêu của các sự việc, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội có liên quan đến
con người; 2) Những sự méo mó, lệch lạc và những nhầm lẫn, chồng chéo vô
lí trong các mối quan hệ, trật tự đã có; 3) Những biểu hiện của sự khờ khạo,
ngây ngô, ngốc nghếch của con người. Cả ba loại yếu tố đều có nguyên nhân
khách quan hoặc chủ quan của nó và có thể từ các mức độ nhẹ, bình thường
đến quá quắt, cực đoan hoặc dẫn đến sự bất thường, lố bịch”. [13, tr.18]
Phạm Thị Hằng trong bài viết “Thủ pháp gây cười của ca dao cổ
truyền người Việt bằng cách tạo dựng mâu thuẫn”, đã cho việc tạo dựng mâu
thuẫn là thủ pháp quan trọng nhất để tạo ra cái cười.
Ý nghĩa, tác dụng của tiếng cười từ ca dao được một số tác giả quan
tâm. Phạm Thị Hằng viết: “Bên cạnh những giá trị nội dung, nghệ thuật tạo
dựng cái cười trong ca dao cổ truyền cũng là một đóng góp không nhỏ cho
nền văn học dân tộc. Nó thực sự là kho báu của người Việt, là vốn nghệ thuật
phong phú cho các tác gia mọi thời đại…”. [13, tr.19]
Đào Thản nhìn nhận: “Không chỉ là một vũ khí đấu tranh xã hội, tiếng
cười còn là một đòi hỏi bức thiết của cuộc sống”. [13, tr.20]
Huỳnh Công Tín, trong bài viết “Cái cười xuất phát từ những cái trái
tự nhiên và nó cũng có ý nghĩa như sự tống tiễn quá khứ lạc hậu, lỗi thời.
Tuy nhiên tiếng cười cũng có thể xuất phát từ một lối tư duy yêu đời, lạc
quan, yêu cuộc sống”. [13, tr.20]
1.2 Cải biên trong ca dao
1.2.1 Khái niệm cải biên và cải biên trong ca dao
Theo Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê (chủ biên) (1994), Cải biên là sửa
đổi hoặc biên soạn lại (thường nói về vốn nghệ thuật cũ) cho hợp với yêu cầu
mới.
Cải biên là một trong những cách mà thế hệ đương thời góp phần sáng
tạo của mình vào các giá trị cổ truyền và cũng là một trong những động lực
phát triển của văn hóa. Ngày nay cải biên trở thành một hiện tượng khá thú
vị, người ta không chỉ góp phần sáng tạo của mình vào cải biên những vốn
nghệ thuật cũ như tuồng cổ, chèo… mà khái niệm cải biên rộng ra cho những
lĩnh vực khác như cải biên trong điện ảnh, cải biên thành ngữ, cải biên tục
ngữ, đặc biệt là cải biên trong ca dao.
Cải biên trong ca dao là sửa đổi lại những câu ca dao vốn quen thuộc
bằng những hình thức như thay từ, thêm bớt từ, triển khai khuôn hình ca
dao… Đây không phải là vấn đề dị bản của ca dao, mà là vấn đề chơi chữ,
thường để đạt mục đích tạo sự hài hước, bông đùa. Tuy vậy, không chỉ đơn
thuần là hình thức chơi chữ giải trí, các câu ca dao cải biên như thế cũng đôi
khi có sức mạnh châm biếm, phê phán một cách sâu sắc và sáng tạo. Người
ta cải biên ca dao không phải vì một số câu ca dao trở nên lỗi thời và việc
sáng tạo ngôn ngữ như thế không làm giảm đi những giá trị của ca dao vốn
được xem là quen thuộc, bám rễ vào đời sống nhân dân.
1.2.2 Các hình thức cải biên trong ca dao
1.2.2.1 Dạng cải biên về từ ngữ
Hình thức này có những thể hiện như:
a) Thay từ: Thay thế từ ngữ trong câu ca dao bằng một từ hoặc
cụm từ khác.
Ví dụ:
- “Học “bài” đang buổi ban trưa
Bốn thằng “học” nhóm ai thua ai buồn?”
(Báo Tuổi Trẻ Cười – số 436 ngày 15/9/2011)
Cày bừa đang buổi ban trưa Học bài đang buổi ban trưa
- “Chiều chiều ra đứng cửa sau
Nhớ chuyện hôm trước mà đau đớn lòng”
(Báo Tuổi Trẻ Cười – số 436 ngày 15/9/2011)
Chiều chiều ra đứng ngõ sau Chiều chiều ra đứng cửa sau
- “Con mèo mà trèo cây cau
Hỏi thăm “chiến hữu” đi đâu vắng nhà”
(Báo Tuổi Trẻ Cười – số 441 ngày 1/12/2011)
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà Hỏi thăm chiến hữu đi đâu
vắng nhà
- “Gió đưa cây cải về trời
Truyện tranh ở lại chịu đời đắng cay”
(Báo Tuổi Trẻ Cười - số 422 ngày 15/2/2011)