Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Khả năng tự đánh giá các phẩm chất ý chí của học sinh THPT
PREMIUM
Số trang
133
Kích thước
1.0 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1395

Khả năng tự đánh giá các phẩm chất ý chí của học sinh THPT

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BÙI THỊ HỒNG THẮM

KHẢ NĂNG TỰ ĐÁNH GIÁ CÁC PHẨM CHẤT Ý CHÍ

CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Chuyên ngành: Tâm lý học

Mã số: 60 31 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. TRƯƠNG CÔNG THANH

Thành phố Hồ Chí Minh - 2010

LỜI TRI ÂN

Tôi chân thành cảm ơn những người đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.

Chân thành cảm ơn các thầy cô khoa Tâm lý - Giáo dục đã đem lại cho tôi

những tri thức tâm lý học để đủ mạnh dạn và tự tin lựa chọn đề tài này.

Cảm ơn các bạn lớp Tâm lý học K18 và K19 đã chia sẻ, động viên tôi những

lúc khó khăn khi thực hiện luận văn.

Chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, giáo viên chủ nhiệm, các bậc cha mẹ học

sinh và các em học sinh của các trường THPT ở TP Phan Thiết đã nhiệt tình ủng hộ

và hợp tác để chúng tôi có những kết quả khách quan, trung thực nhất.

Cảm ơn những đồng nghiệp ở trường CĐ cộng đồng Bình Thuận đã hỗ trợ và

góp ý chân thành cho luận văn.

Cảm ơn gia đình đã tạo những điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành công

việc cần nhiều thời gian và sự chia sẻ này.

Đặc biệt, xin tri ân thầy Trương Công Thanh, người hướng dẫn tôi thực hiện

luận văn. Nếu không có sự quan tâm, động viên cũng như những ý kiến quý giá của

thầy, tôi khó có thể hoàn thành luận văn.

Xin tri ân tất cả!

Tác giả luận văn

Bùi Thị Hồng Thắm

BẢNG VIẾT TẮT CÁC TỪ THƯỜNG DÙNG TRONG LUẬN VĂN

BCS: ban cán sự lớp

ĐG: đánh giá

ĐLTC: độ lệch tiêu chuẩn

ĐTB: điểm trung bình

GVCN: giáo viên chủ nhiệm

HS: học sinh

PCYC: phẩm chất ý chí

TĐG: tự đánh giá

TĐG PCYC: tự đánh giá các giá phẩm chất ý chí

THPT: trung học phổ thông

TYT: tự ý thức

- 4 -

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của cá nhân, tự ý thức và

mức độ phát triển cao của nó là TĐG có vai trò rất to lớn. TĐG là khả năng cá nhân

xác định những phẩm chất và năng lực hiện có của bản thân đang ở mức độ nào, có

đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn để từ đó có sự điều chỉnh phù hợp. Trên

cơ sở TĐG, cá nhân sẽ hướng đến khắc phục những thiếu sót, phát huy những phẩm

chất, hành vi tốt đẹp. Họ còn biết định hướng sự hình thành nhân cách nói chung

phù hợp với hình ảnh lý tưởng khái quát đang được xây dựng ở bản thân[5;10]. Do

đó, tìm hiểu TĐG có lợi cho cả HS và giáo viên trong quá trình giáo dục. Với HS,

đánh giá bản thân một cách đúng đắn, phù hợp sẽ là điều kiện tích cực đối với sự

phát triển toàn diện nhân cách. Hơn nữa, việc phân tích bản thân có mục đích là dấu

hiệu cơ bản của một nhân cách đang trưởng thành và tiền đề của tự giáo dục, tự

hoàn thiện.Với giáo viên, tìm hiểu khả năng TĐG của HS là cơ sở để lựa chọn biện

pháp và xây dựng môi trường giáo dục. Khả năng này vừa là một trong những tiêu

chí để ĐG sự phát triển nhân cách của HS vừa là cơ sở của nguyên tắc giáo dục phát

huy ý thức tự giáo dục của HS.

Rất nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, ở lứa tuổi THPT, HS thường chú ý đến

thế giới nội tâm, những năng lực và phẩm chất của cá nhân. Theo kết quả nghiên

cứu của I.X.Côn , B.N.Voncov, A.N.Lutoxki, các em thường đặt các PCYC vào vị

trí ưu tiên trong trình tự các vấn đề được ĐG.[4;136]. Như vậy, các PCYC là một

trong những mối quan tâm hàng đầu khi ĐG bản thân của HS. Các PCYC vừa là

đặc trưng cho cá nhân với tư cách là một nhân cách vừa có ý nghĩa vô cùng to lớn

trong đời sống, trong hoạt động học tập. Hơn nữa, hoạt động học tập, rèn luyện ở

lứa tuổi THPT đặt ra những yêu cầu ngày càng cao buộc HS phải phát huy những

phẩm chất vốn có để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Khả năng TĐG các PCYC

giúp các em xác định đúng đắn mức độ tồn tại các PCYC, chỉ ra các biểu hiện, từ đó

đặt mục đích, lập kế hoạch cho hoạt động học tập và rèn luyện bản thân, đồng thời,

HS có thể vận dụng để TĐG các phẩm chất, đặc điểm khác của nhân cách.

- 5 -

Mặt khác, khả năng TĐG nói chung, TĐG các PCYC nói riêng một cách

chính xác, phù hợp là một trong những đòi hỏi của thị trường lao động trong thời kì

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. Muốn trở thành người lao động

trong thời đại này, mỗi cá nhân phải biết bản thân có những năng lực và phẩm chất

gì, có mặt mạnh yếu nào. Nghĩa là mỗi cá nhân cần phát huy khả năng TĐG, đặc

biệt là khả năng TĐG các PCYC. Những năm cuối thế kỷ 20 và thập niên đầu thế kỉ

21, các nhà tâm lý học đã chỉ ra rằng, những người thành công trong công việc,

cuộc sống không hẳn là những người có chỉ số thông minh (IQ) hay chỉ số trí tuệ

cảm xúc (EQ) cao mà là những người có chỉ số vượt khó (AQ) cao. Đó là chỉ số về

các PCYC, tính mục đích, nỗ lực vượt khó, tính tự chủ, lòng can đảm…. Như vậy,

sự “tự biết mình”, cụ thể là khả năng TĐG những PCYC sẽ là hành trang giúp HS

thành công trong học tập và cuộc sống sau này.

Từ lâu, TĐG đã được nghiên cứu ở các nước phương Tây, riêng ở Việt Nam,

TĐG bắt đầu được quan tâm từ những năm tám mươi của thế kỉ trước. Các nghiên

cứu chủ yếu tập trung những vấn đề: TĐG thái độ học tập, tính tích cực học tập, thái

độ với tập thể, các phẩm chất nghề nghiệp, các yếu tố ảnh hưởng đến sự TĐG….

Đối tượng của đa số các công trình này là sinh viên, HS tiểu học, HS THCS, đề tài

về TĐG của HS THPT rất ít. Hơn nữa, từ trước đến nay chưa có một nghiên cứu

nào về khả năng TĐG một phẩm chất cụ thể của nhân cách nói chung, TĐG PCYC

của HS THPT nói riêng. Vì vậy, tìm hiểu về khả năng TĐG các PCYC của HS

THPT càng có ý nghĩa thiết thực.

Từ những lý do trên, chúng tôi thực hiện nghiên cứu đề tài: “Khả năng tự đánh

giá các phẩm chất ý chí của học sinh trung học phổ thông”.

2. Mục đích nghiên cứu

Đưa ra thực trạng khả năng TĐG của HS THPT qua sự TĐG về PCYC. Trên

cơ sở đó, đề xuất và thử nghiệm một số biện pháp giáo dục góp phần nâng cao khả

năng TĐG của HS THPT làm cơ sở cho việc tự giáo dục và hoàn thiện bản thân.

- 6 -

3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Khả năng TĐG các PCYC của HS THPT.

3.2. Khách thể nghiên cứu

HS THPT

4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu

4.1. Về nội dung

Những biểu hiện của khả năng TĐG các PCYC của HS THPT chủ yếu trong

hoạt động học tập.

4.2. Về khách thể

HS khối 10 và 12

4.3. Về địa bàn

3 trường THPT : THPT chuyên Trần Hưng Đạo, THPT Phan Bội Châu và trường

THPT dân lập Lê Lợi tại TP Phan Thiết – Bình Thuận.

5. Giả thuyết nghiên cứu

Khả năng TĐG các PCYC của HS THPT chưa cao. Điều đó có thể do ảnh

hưởng của một số yếu tố. Nếu áp dụng một số biện pháp giáo dục phù hợp có thể

góp phần nâng cao khả năng TĐG PCYC của HS.

6. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu lý luận tâm lý học về khả năng TĐG nói chung, khả năng TĐG

PCYC nói riêng.

Nghiên cứu thực trạng khả năng TĐG PCYC của HS THPT.

Đề xuất và thử nghiệm một số biện pháp giáo dục phù hợp để nâng cao khả

năng TĐG PCYC của HS THPT.

7. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện được những nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra, chúng tôi sử dụng

một số phương pháp nghiên cứu sau:

- 7 -

7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu

Tham khảo và phân tích các tài liệu, các công trình nghiên cứu có liên quan

để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.

7.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, được thực hiện qua hai giai đoạn:

Giai đoạn 1: Lấy ý kiến thăm dò bằng các câu hỏi mở.

Giai đoạn 2: Thu thập ý kiến ĐG bằng phiếu thăm dò với các câu hỏi có

nhiều lựa chọn. Đây là phương pháp chính của đề tài nhằm tìm hiểu thực trạng TĐG

PCYC của HS THPT.

7.3. Phương pháp trò chuyện - phỏng vấn

Trò chuyện, trao đổi với một số HS, giáo viên của các trường, cha mẹ HS để

thu thập thêm thông tin cụ thể, thiết thực nhằm đối chiếu với kết quả TĐG của HS.

7.4. Phương pháp quan sát

Quan sát quá trình học tập của HS để thu thập thông tin về một số trường

hợp thể hiện PCYC điển hình.

7.5. Phương pháp thống kê toán học: sử dụng phần mềm SPSS để xử lý số liệu.

8. Đóng góp mới của đề tài

Góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về khả năng TĐG nói chung,

khả năng TĐG PCYC nói riêng của HS THPT và những yếu tố tác động đến nó.

Xây dựng được bảng hỏi và đề xuất cách thức đánh giá khả năng TĐG của

HS THPT, cung cấp thêm những dữ kiện thực tiễn về khả năng TĐG của HS THPT,

kết quả nghiên cứu có thể làm tư liệu cho những nghiên cứu tiếp theo, làm tài liệu

tham khảo cho việc xây dựng các biện pháp rèn PCYC cho HS THPT.

- 8 -

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề

Trong lịch sử phát triển của tâm lý học, vấn đề TĐG được nghiên cứu khá

sớm và ngày càng thu hút sự quan tâm của các nhà tâm lý học. Do TĐG được tiếp

cận theo nhiều quan điểm khác nhau, chúng tôi sẽ điểm qua một số vấn đề cơ bản

được quan tâm nhất cả ngoài nước và trong nước.

1.1.1. Các nghiên cứu ngoài nước

Vấn đề TĐG của HS đã được các nhà nghiên cứu quan tâm từ rất sớm ở các

nước thuộc Liên Xô (cũ), Ba Lan, Đức,…. Họ đã có những đóng góp quan trọng

cho các vấn đề lý luận cơ bản của TĐG như: quan điểm tiếp cận, bản chất, nội dung,

con đường hình thành, vai trò của TĐG, phương pháp nghiên cứu TĐG,….

A.I.Lipkina và L.A.Rưbak trong công trình “Tính phê phán và TĐG trong

hoạt động học tập” đã xác định bản chất tâm lý và nguồn gốc của TĐG. Theo họ,

bản chất tâm lý của TĐG là: “thành phần không thể tách rời của ý thức, của sự

phản ánh chính bản thân mình cũng như mối quan hệ của mình với người khác, với

thực tế xung quanh”.[18;12]. Như vậy, khi xem TĐG là sự phản ánh hiện thực

khách quan – bản thân và mối quan hệ xã hội của cá nhân, TĐG là hiện tượng tâm

lý có thể nhận thức và ĐG được. Họ cũng chỉ ra nguồn gốc của TĐG là: “Sự phát

triển lịch sử xã hội tác động vào cá nhân thông qua hoạt động ngày càng phát triển,

càng phức tạp của bản thân”.[18;12] Là hiện tượng tâm lý, TĐG chịu sự chi phối

của các yếu tố lịch sử, xã hội thông qua hoạt động và giao lưu của cá nhân. Vì thế,

khi nghiên cứu TĐG cần đặt trong lĩnh vực hoạt động cụ thể, một bối cảnh nhất

định. Kết luận trên cũng xác định TĐG mang tính chất xã hội. Những quan hệ xã

hội, chuẩn mực xã hội,… được cá nhân lĩnh hội thông qua hoạt động và giao tiếp sẽ

trở thành những tiêu chuẩn để ĐG người khác và bản thân. Cho nên, khi xem xét

TĐG của cá nhân cần lưu ý đến tiêu chuẩn xã hội và hoàn cảnh TĐG.

Khi nghiên cứu về “Sự TĐG và vai trò của nó trong quá trình hình thành

nhân cách”, V.P. Levcovic xác định mối quan hệ TYT và TĐG, TYT phát triển đến

- 9 -

một giai đoạn nhất định mới xuất hiện TĐG. Khi đó, TĐG vừa mang những đặc

tính của TYT đồng thời có những điểm đặc điểm riêng của mình, thể hiện qua cấu

trúc: nhận thức về bản thân, ĐG đúng khả năng và có thái độ phê phán đối với bản

thân. Từ việc phê phán bản thân, cá nhân sẽ điều chỉnh hành vi để phù hợp với

mong muốn của bản thân, yêu cầu của xã hội, TĐG trở thành một trong những động

cơ thúc đẩy sự phát triển nhân cách. Như vậy, TĐG là điều kiện bên trong điều

khiển hành vi của con người, điều khiển sự phát triển nhân cách.[18;13][18;24].

S.Franz là một trong những tác giả nghiên cứu sâu về TĐG vì thế đóng góp

của bà ở lĩnh vực này rất đa dạng và bao quát. Điều khác biệt với các tác giả khác là

bà xem xét TĐG dưới góc độ nhận thức luận. Theo bà, “…TĐG là một dạng đặc

biệt của hoạt động tự nhận thức. Bởi nền tảng của cách tiếp cận này quá trình tự

nhận thức, Franz đã phân tích các quá trình cấu thành nên nó và khẳng định từ quá

trình tự nhận thức sẽ dẫn đến TĐG. Như vậy, Franz đã làm rõ bản chất và cơ chế

tâm lý của TĐG. Ngoài ra, bà cũng nghiên cứu sâu về các đặc điểm của TĐG, đặc

biệt tính khách quan của TĐG. Từ kết quả nghiên cứu, bà đã đề xướng một số

phương hướng phát triển khả năng TĐG, tổ chức thực nghiệm để kiểm tra tính khoa

học và thực tế các phương hướng đó[18;25]. Cách tiếp cận của Franz đã mở ra một

hướng mới trong nghiên cứu TĐG. TĐG một hiện tượng tâm lý có mức độ biểu

hiện cụ thể, có thể đo lường được. Hơn nữa, khi được xem là quá trình nhận thức

gồm các quá trình cụ thể, TĐG có thể tác động, điều chỉnh được qua việc tác động

đến các quá trình thành phần của nó. Đây là điều mà ngoài Franz, các nhà nghiên

cứu khác chưa chỉ ra được.

Ngoài các tác giả tiêu biểu trên, TĐG cũng được nhiều nhà tâm lý học quan

tâm nghiên cứu ở các khía cạnh khác nhau: J.A.Andrusenco đã tìm hiểu “Những

điều kiện tâm lý để hình thành TĐG của HS cấp I”; Ph.I.Ivasenco quan tâm “Những

đặc điểm TĐG của HS lớn trong học tập và lao động”,

Nhìn chung, các nhà nghiên cứu trên đã đạt được những thành tựu nhất định

khi luận giải các vấn đề cơ bản của TĐG. A.I.Lipkina và L.A.Rưbak chỉ ra bản

chất, nguồn gốc xã hội, vấn đề tiêu chuẩn và hoàn cảnh xã hội của TĐG, V.P.

- 10 -

Levcovic khẳng định vai trò của TĐG – là động cơ thúc đẩy hành vi và điều khiển

sự phát triển nhân cách, thì S.Franz với cách tiếp cận nhận thức luận, đã phân tích

sâu sắc bản chất, cơ chế hình thành TĐG. Đó là những cơ sở lý luận quan trọng

phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài này.

Ở các nước phương Tây, TĐG được nghiên cứu từ rất sớm song song với

vấn đề TYT, cái “tôi” (self), lòng tự trọng (self-esteem) của cá nhân. Gần đây, TĐG

càng được nghiên cứu nhiều ở các nước phát triển. Thống kê cho thấy ở Pháp, trong

vòng 10 năm cuối cùng của thế kỉ XX đã có hơn 20.000 nghiên cứu về sự TĐG bản

thân [8;20]. Còn theo thống kê của hội tâm lý học Mỹ trong vòng 30 năm kể từ

1967 đến năm 1996 đã có 13787 bài viết về TĐG [21;11]. Chúng tôi sẽ điểm qua

một số tác giả tiêu biểu đại diện cho một số quan điểm cơ bản khi nghiên cứu TĐG.

Về mặt lịch sử, W. Jame là người đặt viên gạch đầu tiên cho những nghiên

cứu về TĐG. Những phát biểu về TĐG của ông đặt trên cơ sở lý luận về cái tôi,

lòng tự trọng (ĐG khái quát giá trị bản thân). Theo ông, cái tôi là một cấu trúc bao

gồm nhiều khía cạnh và cấp độ khác nhau, mỗi khía cạnh thể hiện một giá trị, một

vai trò đặc trưng [40;15-18]. TĐG là ý thức về giá trị của cái tôi, bao gồm cái tôi

tổng quát và những cái tôi cụ thể. Việc xác định giá trị liên quan đến kì vọng của cá

nhân trong một lĩnh vực nào đó. Vì vậy, kì vọng trở thành vấn đề quan trọng nhất

trong công thức TĐG. Nhìn chung, James đã phân biệt TĐG gồm TĐG tổng thể và

TĐG những khía cạnh cụ thể của cái tôi và chỉ ra nội dung da dạng của TĐG bao

gồm: thể chất, tính cách, suy nghĩ, giá trị đạo đức,…của cá nhân. Ông khẳng định kì

vọng của bản thân về khả năng của mình là yếu tố bên trong quan trọng nhất trong

sự hình thành TĐG. Hạn chế của James là chưa đưa ra khái niệm TĐG hoàn chỉnh

cũng như chưa thấy được vai trò của các yếu tố xã hội đối với TĐG.

Tiếp bước các nghiên cứu của James, Susan Harter đã đạt những thành tựu to

lớn trong lĩnh vực này. Bà đã làm rõ hơn khái niệm TĐG, theo đó TĐG là “gắn

những giá trị cho các thuộc tính của bản thân”. Những giá trị này có thể tích cực

hay tiêu cựu, dựa trên những thuộc tính và trải nghiệm cảm xúc đối lập của bản

thân. [40;4]. Harter phân tích kĩ TĐG tổng thể và TĐG những lĩnh vực cụ thể (nhận

- 11 -

thức, xã hội, thể chất, cảm xúc). Từ đó, bà đã xây dựng thang đo TĐG cho trẻ em

(Perceied compentence scale for chilren (1979)), tổ chức thực nghiệm và đạt được

những kết quả cụ thể. Theo Harter, trẻ đầu cấp tiểu học đã hình thành ý thức về giá

trị bản thân, tuy nhiên, ý thức đó chủ yếu nghiêng về mô tả bản thân hơn là TĐG.

Với những trẻ ở cuối bậc tiểu học, đã có sự gia tăng tính khác biệt, chính xác và ổn

định một cách tương đối trong ý thức về giá trị bản thân (TĐG) trong mối quan hệ

với bạn bè trang lứa, học tập, hành vi, thể thao và thể chất; TĐG tổng thể được trẻ

xây dựng trên ý thức tổng quát về giá trị của của bản thân.[40;28-55] Thành tựu của

Harter là một trong những nguồn tham khảo đáng lưu ý khi tìm hiểu về TĐG, đặc

biệt, TĐG trong lĩnh vực cụ thể như PCYC của đề tài này.

Một số nhà nghiên cứu như C.H.Cooley, G.H.Mead, J.M.Blaldwin,… khẳng

định TĐG có nguồn gốc xã hội, là kết quả của sự tương tác xã hội với những người

xung quanh và tri giác bản thân. Lý thuyết về TĐG của C.H.Cooley dựa trên hình

ảnh ẩn dụ về “chiếc gương xã hội”, mỗi cá nhân nhìn vào đó và rút ra ý tưởng từ ý

kiến của người khác về anh ta. Vì thế, TĐG của cá nhân là sự phản ánh xã hội, bao

gồm:“(1) hình dung về vẻ bên ngoài của một cá nhân của những người xung

quanh;(2) hình dung về ĐG của họ về vẻ bên ngoài đó;(3) một vài dạng cảm xúc về

bản thân, chẳng hạn như phản ứng xúc động, dẫn đến những ĐG mang tính phản

ánh xã hội. Những hiện tượng này dần trở nên khác biệt với nguồn gốc xã hội ban

đầu thông qua quá trình tiếp thu có chủ định của cá nhân.”[40;18]. Cooley cho

rằng, TĐG là hiện tượng có xúc cảm đi kèm theo, đánh dấu vai trò chủ động của cá

nhân trong sự phát triển TĐG, đặc biệt là TĐG về cảm xúc như tình cảm tự hào và

xấu hổ. Như vậy, Cooley khẳng định nguồn gốc xã hội của TĐG, thái độ của những

người xung quanh đối với cá nhân sẽ quy định ĐG của họ về bản thân.

Tương tự Cooley, G.H.Mead khẳng định vai trò của tương tác xã hội đối với

sự hình thành TĐG. Ông phát biểu: “Chúng ta thể hiện cái tôi của mình ở chừng

mực nào phụ thuộc mức độ bản thân chúng ta nắm bắt thái độ mà người khác đối

xử với mình.” [40;19] Từ đó, TĐG được hình thành từ thái độ của người khác đối

với bản thân, những ĐG có ý nghĩa của nhiều người khác nhau, bằng cách này hay

- 12 -

cách khác, đã tạo ra sức mạnh tâm lý tác động đến ý thức tự xác định giá trị của cá

nhân với tư cách một con người. [40;19] TĐG cũng được xây dựng trên cơ sở trẻ

bắt chước vai trò của người lớn. Khi hành động như người lớn, trẻ không chỉ nắm

bắt vai trò của họ mà còn thừa nhận một người có rất nhiều vai trò trong xã hội, từ

đó trẻ điều chỉnh hành vi của mình. Những kinh nghiệm này được khái quát hóa và

cung cấp cho trẻ hình ảnh cái tôi của bản thân, giá trị của cái tôi (TĐG).

J.M.Blaldwin cho rằng TĐG hình thành từ việc bắt chước những người xung

quanh. Ông xác nhận (1897):“Sự phát triển nhân cách của một đứa trẻ có thể không

tiếp tục nếu không có những biến đổi ý thức của nó về bản thân từ những nhận xét

của người khác. Vì vậy, bản thân đứa trẻ, ở mỗi cấp độ, thật sự là một phần của

người khác, thậm chí một phần nào đó suy nghĩ của nó cũng vậy”.[40;20] Tuy

nhiên, đó không phải là sự bắt chước rập khuôn máy móc mà mang tính xã hội và

sáng tạo. Đó là một quá trình tương tác, thông qua bắt chước trẻ phát triển những

hành vi đặc trưng của mình mà lúc đầu là từ gợi ý của người khác, sau đó là của bản

thân. Ông cũng cho rằng gia đình là nơi cung cấp những mô hình đầu tiên để đứa trẻ

bắt chước, sau đó là nhà trường và môi trường xã hội rộng lớn hơn.[40;20]

Với cả ba nhà nghiên cứu trên, quan trọng nhất là vai trò của quan niệm

người khác trong việc hình thành TĐG của cá nhân, thông qua tương tác xã hội.

Cooley nhấn mạnh TĐG là sự phản ánh xã hội, Mead và Baldwin thống nhất ý kiến

khi xác định vai trò của bắt chước và việc thực hiện các vai trò xã hội trong hình

thành TYT nói chung, TĐG nói riêng. Những nhận định này giúp chúng tôi khẳng

định ảnh hưởng ý kiến của những người xung quanh đến TĐG và củng cố ý tưởng

phải tham khảo ý kiến của những người gần gũi cá nhân khi nghiên cứu TĐG.

Ngoài ra, một số tác giả như M. Rosenberg, S. Coopersmith,…đã có nhiều

đóng góp trong nghiên cứu TĐG, nhất là xác định các yếu tố ảnh hưởng đến TĐG.

Theo Rosenberg, Coopersmith cả Harter, mức độ quan tâm chăm sóc của cha mẹ,

khả năng nhận thức của trẻ trong các lĩnh vực trẻ cho là quan trọng,… đều có tác

động đến TĐG của trẻ.[21;18]. Rosenberg cho rằng tôn giáo, thứ tự sinh cũng ảnh

hưởng đến TĐG, đặc biệt trẻ con một, trẻ nam có TĐG cao hơn [21;18]. Theo

- 13 -

Coopersmith nghề nghiệp, của cha mẹ, TĐG của cha mẹ, tình trạng hôn nhân, hành

vi ứng xử của cha mẹ, khả năng kết quả học tập cua trẻ có ảnh hưởng đến TĐG của

trẻ.[41;41-42][42;64]. Những kết quả này định hướng cho chúng tôi phân tích các

yếu tố ảnh hưởng đến TĐG của trẻ trong kết quả thực tiễn của đề tài.

Điểm qua những nghiên cứu của các tác giả nước ngoài, chúng tôi thấy TĐG

được quan tâm nghiên cứu từ lâu, dưới nhiều góc độ khác nhau. W.James,

C.H.Cooley, G.H.Mead đã đặt những nền tảng đầu tiên cho lý luận về TĐG và ảnh

hưởng đến các nghiên cứu sau này. Họ tập trung vào những vấn đề cơ bản như khái

niệm, nguồn gốc của TĐG. Các nhà nghiên cứu thuộc thế hệ tiếp theo như

M.Rosenberg, S.Coopersmith S.Harter,…đã có những thành tựu nổi bậc như: xây

dựng các thang đo TĐG và tiếp tục bổ sung các yếu tố ảnh hưởng đến TĐG. Tuy

nhiên, các vấn đề như cơ chế, vai trò của TĐG chưa được họ quan tâm. Các nhà tâm

lý học theo trường phái Mac-xít như A.I.Lipkina và L.A.Rưbak, V.P. Levcovic,

S.Franz,… có nhiều phát hiện quan trọng ở các vấn đề như: bản chất, cơ chế, vai trò

của của TĐG trong hình thành và phát triển nhân cách,…. Trong đó, lý luận của

Franz về TĐG dưới góc độ nhận thức luận đã là kim chỉ nam cho những nghiên cứu

về TĐG ở Việt Nam trong những năm gần đây và là một trong những cơ sở lý luận

chính cho đề tài nghiên cứu này.

1.1.2. Các nghiên cứu trong nước

TĐG được bắt đầu nghiên cứu ở Việt Nam vào những năm 80 của thế kỉ

trước. Theo thống kê của tác giả luận văn tính đến thời điểm này có khoảng hơn 20

luận văn, luận án, bài viết trao đổi về TĐG, tập trung hai hướng: quan điểm của các

nhà tâm lý học Mac-xit và quan điểm của các nhà tâm lý học phương Tây.

Lê Ngọc Lan là người đầu tiên tìm hiểu vấn đề TĐG dựa trên cơ sở lý luận

của Franz. Nghiên cứu của bà tập trung vào mối quan hệ giữa TĐG phù hợp của

HSvới thái độ học tập và động cơ học tập. Công trình này đưa ra kết luận như sau:

TĐG có liên quan đến các yếu tố tâm lý của nhân cách, trong đó thái độ học tập có

liên quan chặt chẽ với động cơ học tập; khả năng TĐG phù hợp đối với thái độ học

tập ở HS khối 6 và khối 8 chưa cao; sự TĐG thái độ học tập ở các môn học khác

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!