Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam
Hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật Dân sự Việt Nam
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
NGÔ THỊ MINH LOAN
HỦY BỎ HỢP ĐỒNG DO BỊ VI PHẠM TRONG
BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60380103
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Đỗ Văn Đại
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan danh dự Luận văn này là kết quả của quá trình tổng hợp và
nghiên cứu nghiêm túc của bản thân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của
PGS.TS Đỗ Văn Đại. Các thông tin, bản án, quyết định được trích dẫn trong luận
văn là trung thực, chính xác.
Tác giả luận văn
Ngô Thị Minh Loan
MỤC LỤC
Mục lục Trang
PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỦY BỎ HỢP ĐỒNG DO BỊ VI
PHẠM TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM............................................... 7
1.1. Khái niệm, mục đích của hủy bỏ hợp đồng và phân biệt chế định hủy bỏ
hợp đồng với một số chế định khác ...................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm hủy bỏ hợp đồng.................................................................. 7
1.1.2. Mục đích của hủy bỏ hợp đồng............................................................10
1.1.3. Phân biệt hủy bỏ hợp đồng và hợp đồng vô hiệu...................................12
1.1.4. Phân biệt hủy bỏ hợp đồng và đơn phương chấm dứt thực hiện hợp
đồng .......................................................................................................................13
1.2. Điều kiện hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật Dân sự Việt Nam16
1.2.1. Vi phạm hợp đồng ...............................................................................16
1.2.2. Pháp luật có quy định...........................................................................25
1.2.3. Thông báo hủy bỏ hợp đồng .................................................................28
1.3. Hậu quả pháp lý của hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật Dân sự
Việt Nam ...............................................................................................................31
1.3.1. Hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận.......................................................31
1.3.2. Hoa lợi, lợi tức .....................................................................................33
1.3.3. Ảnh hưởng đến bên thứ ba....................................................................34
1.3.4. Ảnh hưởng đến một số điều khoản khác của hợp đồng..........................35
1.3.5. Bồi thường thiệt hại..............................................................................37
Kết luận chƣơng 1 ................................................................................................40
CHƢƠNG 2. NHỮNG VƢỚNG MẮC, BẤT CẬP VỀ HỦY BỎ HỢP ĐỒNG
DO BỊ VI PHẠM TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM VÀ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN......................................................................................................41
2.1. Về áp dụng đúng chế định hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật
Dân sự Việt Nam...................................................................................................41
2.2. Về điều kiện hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật Dân sự Việt
Nam.......................................................................................................................47
2.2.1. Về vi phạm hợp đồng............................................................................47
2.2.2. Về pháp luật có quy định ......................................................................51
2.2.3. Về thông báo hủy bỏ hợp đồng .............................................................57
2.3. Về hậu quả pháp lý của hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật Dân
sự Việt Nam ..........................................................................................................62
2.3.1. Hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận.......................................................62
2.3.2. Ảnh hưởng đến bên thứ ba....................................................................63
2.3.3. Ảnh hưởng đến một số điều khoản khác của hợp đồng..........................70
2.3.4. Bồi thường thiệt hại..............................................................................74
Kết luận chƣơng 2 ................................................................................................78
KẾT LUẬN...........................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hợp đồng là chế định rất cơ bản và quan trọng trong pháp luật dân sự của bất
kỳ quốc gia nào. Với vai trò tạo dựng khung pháp lý cho giao dịch dân sự, chế định
hợp đồng có tần suất áp dụng cao trên thực tiễn. Để đáp ứng nhu cầu của các bên
giao kết, mỗi bên phải thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Tuy nhiên, vì các nguyên do
khác nhau mà nhiều hợp đồng đã giao kết hợp pháp lại không được thực hiện. Khi
đó, Bộ luật Dân sự đã đưa ra những biện pháp giải quyết, có thể kể đến là: gia hạn
thời gian thực hiện hợp đồng, buộc tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng, yêu cầu giảm
giá, yêu cầu bồi thường thiệt hại, đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng... Và
biện pháp cuối cùng có thể coi là nặng nhất là hủy bỏ hợp đồng. Biện pháp này
không hề được mong muốn áp dụng, thế nhưng không thể cứ kéo dài mãi để cho
một bên phải chịu thiệt hại từ việc bên kia vi phạm hợp đồng trong khi áp dụng các
biện pháp xử lý khác không hiệu quả.
Số lượng điều khoản liên quan đến hủy bỏ hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm
2005 không phải là ít, cả phần quy định về hợp đồng dân sự thông dụng lẫn phần
quy định chung về hợp đồng. Mặc dù, Bộ luật Dân sự năm 2005 đã có một số thay
đổi liên quan đến hủy bỏ hợp đồng, thế nhưng những thay đổi này vẫn còn mang
tính riêng rẽ, không dựa trên một quan điểm lý luận thống nhất nào. Vì vậy, nếu chỉ
đơn thuần vận dụng các quy định này thì thực tiễn xét xử vẫn còn nhiều chỗ rơi vào
bế tắc, nhiều vấn đề pháp lý phát sinh không có câu trả lời hoặc mỗi một Tòa án sẽ
có cách giải quyết khác nhau. Chẳng hạn: một bên vi phạm hợp đồng gây thiệt hại
cho bên còn lại nhưng trước đó các bên không có thỏa thuận về điều kiện hủy bỏ
hợp đồng và pháp luật cũng không trao quyền hủy bỏ hợp đồng thì hợp đồng có thể
được Tòa án tuyên hủy bỏ hay không? Một bên khởi kiện yêu cầu hủy bỏ hợp đồng
nhưng đối tượng của hợp đồng đang nằm trong sự chiếm hữu của bên thứ ba thì
nghĩa vụ hoàn trả tài sản đã nhận giữa hai bên trong hợp đồng sẽ thực hiện như thế
nào? Quyền lợi của bên thứ ba có được pháp luật công nhận và bảo vệ hay không?
Các thỏa thuận về giải quyết tranh chấp cũng như về quyền và nghĩa vụ của các bên
sau khi hủy bỏ hợp đồng có hiệu lực hay không khi hợp đồng bị hủy bỏ?
Hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng nói chung, về biện pháp hủy
bỏ hợp đồng nói riêng nhằm thúc đẩy quan hệ dân sự phát triển lành mạnh là một
trong các nhiệm vụ được đặt ra trong chiến lược cải cách tư pháp của nước ta hiện
nay. Nghiên cứu các vấn đề pháp lý xoay quanh việc hủy bỏ hợp đồng do bị vi
phạm trong Bộ luật Dân sự Việt Nam là rất cần thiết và có tính thực tiễn cao trong
bối cảnh nước ta đang xây dựng dự thảo sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự năm 2005.
2
Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm
trong Bộ luật Dân sự Việt Nam” để làm luận văn tốt nghiệp cao học luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề hủy bỏ hợp đồng nói chung và hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong
Bộ luật Dân sự Việt Nam nói riêng được sự quan tâm và nghiên cứu của các nhà
khoa học pháp lý, luật sư và những người học luật nói chung dưới nhiều góc độ.
Trong thời gian qua, đã có nhiều đề tài nghiên cứu vấn đề pháp luật về hủy bỏ
hợp đồng. Ở cấp độ thạc sĩ, có luận văn “Chế tài đình chỉ hợp đồng và hủy bỏ hợp
đồng trong hoạt động thương mại” của tác giả Nguyễn Thị Việt Hà năm 2010. Vì
đề tài này nghiên cứu chế định hủy bỏ hợp đồng trong hoạt động thương mại, mà cụ
thể là quy định của LTM năm 2005 nên tác giả đã không nghiên cứu sâu chế định
hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật Dân sự năm 2005.
Ở cấp độ cử nhân có luận văn "Hủy bỏ hợp đồng do vi phạm trong quá trình
thực hiện" của tác giả Nguyễn Nhật Thanh năm 2010, luận văn “Hủy bỏ hợp đồng
và đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm
2005” của tác giả Võ Thị Thanh năm 2012, luận văn "Hủy bỏ hợp đồng dân sự và
hậu quả pháp lý của hợp đồng bị hủy bỏ" của tác giả Đoàn Thị Hằng năm 2011,
luận văn "Hủy bỏ hợp đồng và đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dân sự"
của tác giả Nguyễn Thị Hường năm 2012, luận văn "Tuyên bố hủy hợp đồng và hậu
quả pháp lý của việc hủy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo Công ước Viên
năm 1980 và Luật Thương mại năm 2005" của tác giả Bùi Thị Bích Sơn năm 2011.
Tuy nhiên, các đề tài trên có phạm vi nghiên cứu khá rộng, vừa nghiên cứu chế định
hủy bỏ hợp đồng vừa nghiên cứu chế định đơn phương chấm dứt thực hiện hợp
đồng, có đề tài thì nghiên cứu chế định hủy bỏ hợp đồng theo Công ước Viên về
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và theo Luật Thương mại năm 2005 chứ không
phải trong Bộ luật Dân sự năm 2005. Ngoài ra, các tác giả trên chỉ mới dừng lại ở
việc phân tích các quy định của pháp luật, chưa làm nổi bậc các vấn đề bất cập trên
thực tiễn xét xử.
Vấn đề hủy bỏ hợp đồng được thể hiện trong các giáo trình Luật dân sự, các
sách bình luận luật dân sự, các sách chuyên khảo. Cụ thể là các Giáo trình Luật dân
sự Việt Nam của Đại học Luật Hà Nội qua các năm; cuốn Luật hợp đồng Việt Nam -
Bản án và bình luận bản án (tập 2) của tác giả Đỗ Văn Đại do Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội phát hành năm 2011 và tái bản năm 2014; cũng tác
giả này có cuốn Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong
pháp luật Việt Nam do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội phát hành năm
2010 và tái bản năm 2013. Tương tự một số cuốn sách khác cũng có phần nội dung
3
liên quan đến vấn đề này là cuốn Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt
Nam của tác giả Nguyễn Ngọc Khánh do Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội phát hành
năm 2007. Tuy nhiên, vì đây là sách giáo trình, sách chuyên khảo giải quyết khá
nhiều vấn đề pháp lý về hợp đồng nên chế định hủy bỏ hợp đồng chưa được nghiên
cứu toàn diện. Các công trình nghiên cứu chủ yếu về điều kiện áp dụng của biện
pháp này, mà chưa tập trung nhiều vào các vấn đề không kém phần quan trọng khác
như: giá trị của thông báo hủy bỏ hợp đồng, mối quan hệ giữa hủy bỏ hợp đồng và
các thỏa thuận về giải quyết tranh chấp cũng như điều khoản về quyền và nghĩa vụ
sau khi hủy bỏ hợp đồng.
Tiếp theo có thể tìm thấy ở các bài viết như: Hủy bỏ hợp đồng do có vi phạm ở
Việt Nam của Đỗ Văn Đại, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 2 năm 2009; Vấn
đề hủy bỏ và đình chỉ hợp đồng do vi phạm trong Bộ luật Dân sự của Đỗ Văn Đại,
đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý 3 (22) năm 2004; Quy định về hủy bỏ hợp đồng
dân sự của Vũ Thanh Tuấn, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân tối cao số 21 năm
2010…
Các cuốn sách và bài viết trên là nguồn tài liệu rất quý giá, với nhiều thông tin
bổ ích và đưa ra các vấn đề còn bất cập, những lỗ hỏng pháp lý phải bổ sung xoay
quanh vấn đề hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật Dân sự Việt Nam với
những dẫn chứng thực tiễn xét xử và đặt trong sự so sánh với pháp luật thế giới rất
thuyết phục. Tuy nhiên, vì đối tượng nghiên cứu của các tài liệu này là rất nhiều nên
các tác giả chưa đi sâu và thể hiện toàn diện những vấn đề cần giải quyết về hủy bỏ
hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật Dân sự Việt Nam. Vì vậy, chế định này cần
được nghiên cứu chuyên sâu, làm rõ các vấn đề bất cập, thiếu sót được bộc lộ trong
quá trình áp dụng pháp luật mà chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu. Nhất
là làm rõ hậu quả pháp lý của hủy bỏ hợp đồng trong mối quan hệ với bên thứ ba,
mối quan hệ giữa hủy bỏ hợp đồng với thỏa thuận về giải quyết tranh chấp hay về
quyền và nghĩa vụ các bên sau khi hủy bỏ hợp đồng.
Từ thực tiễn tình hình nghiên cứu như trên, thiết nghĩ đề tài “Hủy bỏ hợp
đồng do bị vi phạm trong Bộ luật Dân sự Việt Nam” cần được đầu tư một cách
toàn diện, chuyên sâu góp phần tạo cơ sở lý luận và thực tiễn trong công cuộc sửa
đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự năm 2005.
3. Mục đích, đối tƣợng và giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ nền tảng lý luận mà trên cơ sở đó các nhà
làm luật Việt Nam quy định quyền hủy bỏ hợp đồng khi một bên vi phạm hợp đồng,
đánh giá các quy định về hủy bỏ hợp đồng theo Bộ luật Dân sự hiện hành và thực
4
tiễn xét xử tại các Tòa án hiện nay về hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm. Từ đó phân
tích các điểm tiến bộ cùng các vấn đề còn bỏ ngõ, những nhược điểm của quy định
pháp luật dân sự hiện nay trong mối quan hệ so sánh với quy định pháp luật quốc tế.
Trên cơ sở kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, tác giả đề xuất một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về hủy bỏ hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm
2005, từ đó góp phần tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong hoạt động áp dụng pháp
luật của các Tòa án, đồng thời đưa chế định hủy bỏ hợp đồng của Việt Nam gần gũi
hơn với các hệ thống pháp luật trên thế giới.
Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu mà tác giả hướng đến chính là những quy định trong Bộ
luật Dân sự hiện hành về hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm. Trước tiên, luận văn
nghiên cứu những vấn đề cơ bản về hủy bỏ hợp đồng được Bộ luật Dân sự quy
định, cụ thể là: khái niệm, mục đích, điều kiện áp dụng, hậu quả pháp lý của biện
pháp hủy bỏ hợp đồng khi một bên vi phạm hợp đồng.
Từ những vấn đề cơ bản xoay quanh biện pháp hủy bỏ hợp đồng nêu trên, tác
giả tiếp tục nghiên cứu những vấn đề còn tranh cãi, những điểm trống pháp lý chưa
kịp điều chỉnh, những bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật. Và cuối cùng đưa
ra một số kiến nghị hoàn thiện các vấn đề cụ thể đang nghiên cứu.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Đúng theo tên đề tài: “Hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật Dân sự
Việt Nam”, đề tài không nghiên cứu hủy bỏ hợp đồng theo thỏa thuận, mà chỉ
nghiên cứu về hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm và các bên không có thỏa thuận về
vấn đề hủy bỏ. Hủy bỏ hợp đồng theo thỏa thuận xảy ra khi một bên vi phạm điều
kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận. Hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm xảy ra khi
một bên vi phạm nghĩa vụ mà pháp luật trao cho bên còn lại quyền hủy bỏ hợp đồng
dù trước đó các bên có thỏa thuận điều kiện hủy bỏ hợp đồng hay không. Như vậy,
hai loại hủy bỏ hợp đồng trên khác nhau ở chỗ điều kiện áp dụng, hủy bỏ hợp đồng
theo thỏa thuận quan tâm trước tiên đến điều kiện thỏa thuận hủy bỏ, còn hủy bỏ
hợp đồng do bị vi phạm quan tâm trước tiên đến căn cứ pháp luật quy định trao
quyền hủy bỏ.
Trong khuôn khổ luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật, tác giả chỉ tập trung nghiên
cứu quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về hủy bỏ hợp đồng, cụ thể là quy định
tại phần chung và phần các hợp đồng dân sự thông dụng. Tuy nhiên, để làm rõ chế
định hủy bỏ hợp đồng theo Bộ luật Dân sự năm 2005, đánh giá những mặt được và
còn tồn tại của các quy định này, tác giả sẽ nghiên cứu quy định về vấn đề này trong
cả Luật Thương mại năm 2005, Bộ luật Dân sự Pháp, Bộ luật Dân sự Nhật Bản,
5
Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Bộ nguyên tắc của Unidroit
về hợp đồng thương mại quốc tế...
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng đan xen các phương pháp phân
tích, đánh giá, tổng hợp, so sánh pháp luật, khảo sát thực tiễn.
Phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp luật được sử dụng nhiều ở những
phần của luận văn đề cập đến các vấn đề cơ bản mang tính lý luận về hủy bỏ hợp
đồng do bị vi phạm trong Bộ luật Dân sự Việt Nam (Chương 1 luận văn). Cụ thể
luận văn sẽ phân tích các quy định của Bộ luật Dân sự, tổng hợp các bài viết và ý
kiến của các tác giả xoay quanh vấn đề hủy bỏ hợp đồng.
Bên cạnh đó, luận văn không quên một phương pháp rất quan trọng nhằm
từng bước đưa pháp luật Việt Nam không lạc lõng mà gần gũi với pháp luật các
nước được đánh giá là tiến bộ, hiện đại. Đó là phương pháp so sánh pháp luật. So
sánh quy định hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật về hủy bỏ hợp đồng do bị vi
phạm theo Bộ luật Dân sự Việt Nam với pháp luật thực định và thực tiễn xét xử ở
Pháp, Nhật Bản...về vấn đề này, cũng như so sánh với quy định của các công ước
quốc tế, các nguyên tắc pháp luật hợp đồng quốc tế được thừa nhận rộng rãi.
Phương pháp này được áp dụng xuyên suốt hầu như tất cả các mục của luận văn.
Chương 2 của luận văn, tác giả sử dụng chủ yếu phương pháp khảo sát, đánh
giá thực tiễn, đối chiếu với những gì đã phân tích, tổng hợp tại Chương 1, từ đó
tổng hợp cuối cùng để đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện đề tài đang nghiên cứu.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Về mặt lý luận: Với mục tiêu nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, đề tài
góp phần làm sáng tỏ trong khoa học pháp lý các vấn đề lý luận về biện pháp hủy
bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật Dân sự Việt Nam. Củng cố quan điểm lý
luận nền tảng điều chỉnh chế định này.
Về mặt thực tiễn: Việc làm rõ những vấn đề còn vướng mắc, bất cập trong quá
trình áp dụng pháp luật và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện, đề tài giúp các nhà
áp dụng pháp luật nắm rõ ý nghĩa của quy định hủy bỏ hợp đồng, biết được mục
đích mà nhà làm luật hướng tới khi điều chỉnh biện pháp hủy bỏ hợp đồng trong
tương lai. Từ đó có cơ sở vững chắc để áp dụng biện pháp này một cách hiệu quả.
Nghiên cứu đề tài trên góp phần đưa ra những vấn đề cần được luật hóa, làm
rõ đồng thời có một số kiến nghị mong muốn được quan tâm trong đợt sửa đổi, bổ
sung Bộ luật Dân sự năm 2005 lần này. Kết quả nghiên cứu đề tài có thể được sử
dụng làm nguồn tài liệu tham khảo cho các sinh viên chuyên ngành luật.
6
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung đề tài gồm 2 chương, như sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ
luật Dân sự Việt Nam;
Chương 2: Những vướng mắc, bất cập về hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm
trong Bộ luật Dân sự Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện.
7
CHƢƠNG 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỦY BỎ HỢP ĐỒNG DO BỊ VI PHẠM
TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, mục đích của hủy bỏ hợp đồng và phân biệt chế định hủy
bỏ hợp đồng với một số chế định khác
1.1.1. Khái niệm hủy bỏ hợp đồng
* Hợp đồng
Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ nhằm đạt được lợi ích hợp pháp mà họ mong muốn. “Hợp đồng có
thể được coi là kết quả của việc thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên, được thể
hiện trong các điều khoản cụ thể về quyền, nghĩa vụ của mỗi bên để có cơ sở cùng
nhau thực hiện”
1
.
Cũng như pháp luật của các quốc gia khác, trong hệ thống pháp luật Việt Nam
tồn tại nhiều loại hợp đồng: hợp đồng dân sự, hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp
đồng đầu tư, hợp đồng kinh doanh bảo hiểm…. Tuy nhiên, trong phần này để hiểu
rõ khái niệm về hợp đồng nói chung tác giả xin chỉ trích dẫn, nghiên cứu quy định
của Bộ luật Dân sự (BLDS) về hợp đồng2
.
Với tư cách là luật gốc của hệ thống luật tư, BLDS dành sự quan tâm đặc biệt
điều chỉnh quan hệ hợp đồng, nói chính xác theo BLDS là “hợp đồng dân sự”.
Trước tiên, hợp đồng là một loại giao dịch dân sự, bởi Điều 121 BLDS năm 2005
quy định: "Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”3
. Tiếp theo BLDS định
nghĩa “hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” (Điều 388 BLDS năm 2005, Điều 394
BLDS năm 1995). Như vậy, đặc điểm không thể thiếu của hợp đồng dân sự chính là
sự thỏa thuận giữa các bên và mục đích xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và
nghĩa vụ dân sự. Đây chính là hai điều kiện cấu thành hợp đồng, nếu thiếu một
trong hai điều kiện này thì hợp đồng không được hình thành. “Tất cả các hợp đồng
1 Đinh Văn Thanh (1999), “Đặc trưng pháp lý của hợp đồng dân sự”, Luật học, (04), tr. 19.
2 Xuất phát từ phạm vi điều chỉnh rộng lớn của BLDS, theo Điều 1 BLDS năm 2005 quy định: “Bộ luật dân
sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác;
quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự)”.
3 Điều 130 BLDS năm 1995 quy định: “Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đơn phương hoặc hợp đồng của
cá nhân, pháp nhân và của các chủ thể khác nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự”.
8
đều là sự thỏa thuận. Tuy nhiên không phải bất cứ sự thỏa thuận nào cũng là hợp
đồng”4
.
Khái niệm “hợp đồng dân sự” trong BLDS Việt Nam được nhiều nhà nghiên
cứu pháp luật trong nước và thế giới đánh giá là có tính bao quát cao, bởi nó được
áp dụng không chỉ cho “hợp đồng dân sự” như khái niệm này đề cập mà là khái
niệm cho hợp đồng nói chung.
Có quan điểm cho rằng:
Qua phân tích chế định hợp đồng của Bộ luật cho thấy, Bộ luật Dân
sự quy định về hợp đồng dân sự theo nghĩa chung cho tất cả các hợp
đồng, là căn cứ để quy định các điểm đặc thù về từng loại hợp đồng theo
chuyên ngành luật. Với ý nghĩa đó, dù cho nhiều lý do khác nhau mà Bộ
luật Dân sự vẫn còn khái niệm “Hợp đồng dân sự” nhưng chữ “dân sự”
trong khái niệm “hợp đồng dân sự” theo Bộ luật Dân sự không còn
nguyên nghĩa như trong Pháp lệnh. Nội dung, nội hàm của nó đã có sự
thay đổi theo hướng mở rộng đến mức chỉ cần dùng hai chữ “hợp đồng”
mà thôi!
5
Đồng tình với quan điểm trên, nhiều học giả kiến nghị bỏ từ “dân sự” đặt sau
hai từ “hợp đồng” và “nghĩa vụ” nhằm tạo cách hiểu nhất quán cho những đối
tượng chịu sự điều chỉnh của BLDS biết rằng mình không những phải tuân thủ pháp
luật chuyên ngành mà còn phải luôn tuân thủ quy định về hợp đồng trong BLDS6
.
Một tác giả khác cho rằng không nên đặt từ “dân sự” ngay sau khái niệm
“hợp đồng” vì không cần thiết và dễ gây hiểu nhầm bởi:
Về mặt lô ghích, từ dân sự được đặt ở vị trí này là nhằm xác định rõ
nghĩa của khái niệm „hợp đồng‟, nhằm để chỉ đây là „hợp đồng dân sự‟
chứ không phải là hợp đồng khác (thương mại, lao động). Trong khi đó,
khái niệm hợp đồng dân sự được quy định tại Điều 388 BLDS năm 2005
4 Bộ Tư pháp (1996), Những nội dung cơ bản của Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
H. 1996, tr. 96.
5 Bộ Tư pháp, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (2000), Thông tin Khoa học pháp lý: Nghiên cứu so sánh
pháp luật về hợp đồng giữa Việt Nam và Nhật Bản, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 38.
6 Nguyễn Thị Mơ, Quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về hợp đồng - Những bất cập đặt ra từ thực tiễn
giao kết hợp đồng của doanh nghiệp và giải pháp sửa đổi,
http://vibonline.com.vn/Forum/TopicDetail.aspx?TopicID=4773, truy cập ngày 15/12/2013.
Tác giả này cũng cho rằng: “việc đưa 2 chữ DÂN SỰ vào khái niệm hợp đồng tại Điều 388 và gọi đó là khái
niệm HỢP ĐỒNG DÂN SỰ trong thực tế đã không chỉ làm vô hiệu hóa giá trị của những quy định tại Điều 4
Luật TM 2005 và phá vỡ tính thống nhất, tính liên kết chặt chẽ giữa các quy định về hợp đồng trong các văn
bản pháp luật hiện hành của Việt Nam.”
9
với chủ định xem đây là khái niệm chung được sử dụng để chỉ mọi hợp
đồng chứ không phải chỉ dành riêng cho „hợp đồng dân sự‟7
.
Tìm hiểu định nghĩa về hợp đồng ở một số nước, chúng ta thấy rằng:
BLDS Pháp tại Điều 1101 quy định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên
theo đó một hay nhiều người cam kết với một hoặc nhiều người khác về việc chuyển
giao một vật, làm hoặc không làm một công việc nào đó”.
Tương tự, BLDS Kê-bếch định nghĩa: “Hợp đồng là ràng buộc hai bên, hay
song phương, khi các bên tự ràng buộc mình một cách qua lại, mỗi bên đối với bên
kia, để nghĩa vụ của một bên tương ứng với nghĩa vụ của bên kia”.
Điều 420 BLDS Liên Bang Nga năm 1994 định nghĩa: “Hợp đồng là sự thỏa
thuận giữa hai hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự”.
Các định nghĩa của một số quốc gia nêu trên đều thể hiện hai yếu tố không thể
thiếu của hợp đồng là thỏa thuận và mục đích tạo lập hiệu lực pháp lý mà các bên
giao kết phải tuân thủ.
Tóm lại, qua việc xem xét khái niệm “hợp đồng dân sự” tại BLDS năm 2005
và tìm hiểu khái niệm “hợp đồng” tại pháp luật một số quốc gia đã cho thấy tính
thống nhất của hai khái niệm này. Hợp đồng chính là sự thỏa thuận giữa các bên về
việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ.
* Hủy bỏ
Viện Ngôn ngữ học định nghĩa hủy bỏ là “bỏ đi, coi là hoàn toàn không có
hiệu lực hay giá trị nữa”8
.
Tuy nhiên, hiện BLDS hoàn toàn không có định nghĩa thế nào là “hủy bỏ”.
Rà soát BLDS hiện hành có thể thấy từ “hủy bỏ” được xuất hiện nhiều lần.
Chẳng hạn như: khoản 1 Điều 425 (hủy bỏ hợp đồng khi một bên vi phạm hợp đồng
là điều kiện hủy bỏ đã được thỏa thuận trước hoặc pháp luật có quy định), khoản 2
Điều 435 (bên mua có quyền hủy bỏ hợp đồng khi bên bán giao ít hơn số lượng đã
thoả thuận), khoản 2 Điều 443 (bên mua có quyền hủy bỏ hợp đồng nếu người thứ
ba có quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản mua bán), khoản 3 Điều 463 (một
bên có quyền huỷ bỏ hợp đồng nếu bên bên kia trao đổi tài sản cho mình mà tài sản
này không thuộc quyền sở hữu của họ hoặc họ không được chủ sở hữu uỷ quyền)…
7 Lê Minh Hùng (2010), Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật
học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 13
8 Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, tr. 470.