Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

T
PREMIUM
Số trang
135
Kích thước
25.5 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1887

Hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba trong pháp luật dân sự

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

ĐẶNG THÁI BÌNH

HỢP ĐỒNG VÌ LỢI ÍCH CỦA NGƯỜI THỨ BA

TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

HỢP ĐỒNG VÌ LỢI ÍCH CỦA NGƯỜI THỨ BA

TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự

Mã số: 8380103

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Đỗ Văn Đại

Học viên: Đặng Thái Bình

Lớp: Cao học Luật - Khóa 27

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan luận văn thạc sĩ “Hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba

trong pháp luật dân sự” là công trình nghiên cứu khoa học do bản thân tôi

thực hiện. Những tài liệu, số liệu được sử dụng trong luận văn bảo đảm tính

khách quan, chính xác. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được

công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.

Tác giả

Đặng Thái Bình

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS Bộ luật Dân sự

BLDS 1995 Bộ luật Dân sự 1995

BLDS 2005 Bộ luật Dân sự 2005

BLDS 2015 Bộ luật Dân sự 2015

BLTTDS 2015 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU.............................................................................................................. 1

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG VÌ LỢI ÍCH CỦA

NGƯỜI THỨ BA TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM .................................. 9

1.1. Khái niệm hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba................................................. 9

1.2. Đặc điểm của hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba.......................................... 13

1.3. Ý nghĩa của các quy định về hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba.................. 21

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .............................................................................................. 23

CHƯƠNG 2. ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ HỢP ĐỒNG VÌ LỢI ÍCH

CỦA NGƯỜI THỨ BA TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM....................... 24

2.1. Điều kiện liên quan đến các bên giao kết trong hợp đồng vì lợi ích của người

thứ ba ........................................................................................................................ 24

2.1.1. Có sự thoả thuận giữa các bên liên quan đến lợi ích của người thứ ba...... 24

2.1.1.1. Tồn tại thỏa thuận giữa các bên ............................................................ 24

2.1.1.2. Nội dung thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba27

2.1.2. Các bên giao kết hợp đồng đều phải thực hiện nghĩa vụ............................. 32

2.2. Điều kiện liên quan đến người thứ ba ............................................................... 34

2.2.1. Tồn tại người thứ ba thụ hưởng.................................................................. 34

2.2.2. Sự đồng ý của người thứ ba......................................................................... 41

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .............................................................................................. 46

CHƯƠNG 3. QUYỀN CỦA NGƯỜI THỨ BA TRONG HỢP ĐỒNG VÌ LỢI ÍCH

CỦA NGƯỜI THỨ BA THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM.......................... 47

3.1. Quyền yêu cầu thực hiện hợp đồng ................................................................... 47

3.1.1. Chủ thể có quyền yêu cầu thực hiện hợp đồng............................................ 47

3.1.2. Bên có nghĩa vụ từ chối thực hiện nghĩa vụ đối với người thứ ba .............. 52

3.1.3. Trường hợp có tranh chấp về việc thực hiện hợp đồng ............................... 59

3.2. Quyền từ chối của người thứ ba ........................................................................ 60

3.3. Quyền thể hiện ý chí đối với việc sửa đổi, hủy bỏ hợp đồng............................. 64

3.3.1. Sự đồng ý của người thứ ba đối với việc sửa đổi, hủy bỏ hợp đồng............. 64

3.3.2. Phương thức thể hiện sự đồng ý của người thứ ba ..................................... 68

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .............................................................................................. 72

PHẦN KẾT LUẬN........................................................................................................ 73

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Hợp đồng đóng vai trò là một phương tiện pháp lý quan trọng trong quá trình

trao đổi lợi ích của các cá nhân, tổ chức nhằm thỏa mãn các nhu cầu của mình trong

cuộc sống. Trong BLDS của hầu hết các quốc gia, chế định hợp đồng được xem là

“chiếm một vị trí trung tâm và được chế định với dung lượng lớn nhất so với các

chế định khác” và có “vai trò trung tâm đối với trật tự thị trường… ”

1

. Cùng với sự

phát triển của xã hội, chế định hợp đồng cũng ngày càng phát triển đa dạng hơn để

đáp ứng được quá trình trao đổi hàng hóa trong nền kinh tế thị trường. Có thể hiểu

hợp đồng là sự thống nhất ý chí giữa ít nhất hai chủ thể trở lên và sự thoả thuận này

sẽ làm phát sinh các quyền, nghĩa vụ giữa các bên. Thông thường, trong một hợp

đồng sẽ có hai bên cơ bản là bên có quyền và bên có nghĩa vụ. Tuy nhiên, nhu cầu

của các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự rất đa dạng, do đó trong hợp

đồng không chỉ tồn tại hai chủ thể như trên mà còn phát sinh thêm một đối tượng

rất đặc biệt khác mà quyền và lợi ích của họ cũng bị ảnh hưởng bởi hợp đồng này,

trong BLDS gọi các đối tượng này là “người thứ ba”.

Khái niệm “người thứ ba” xuất hiện trong một số loại giao dịch dân sự được

quy định trong BLDS. Trong đó, có các quy định liên quan đến “hợp đồng vì lợi ích

của người thứ ba”. Trong trường hợp này các bên không chỉ mong muốn đem tới lợi

ích cho bản thân mình khi tham gia vào hợp đồng mà thỏa thuận này của họ nhằm

đem tới lợi ích cho một chủ thể thứ ba. Cũng từ đó mà BLDS đã hình thành các quy

định về “hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba” nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích

chính đáng của các đối tượng này. Kể từ thời điểm BLDS 2015 ra đời thì các quy

định về hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba cũng ngày càng được hoàn thiện hơn

về phương diện lý luận cũng như trong các quy phạm pháp luật. Cụ thể, BLDS

2015 đã đưa ra được định nghĩa hợp đồng vì lợi ích cho người thứ ba, cách thức

thực hiện hợp đồng, quyền của người thứ ba cũng như quyền và nghĩa vụ của các

bên trong hợp đồng. Tuy nhiên có thể nhận thấy, các quy định này chưa thật sự linh

hoạt, chặt chẽ, bao quát được hết các vấn đề dẫn đến việc Tòa án còn lúng túng

trong việc áp dụng các quy định này. Một số điểm bất cập còn tồn tại hiện nay như:

khái niệm hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba chưa thật sự thể hiện được bản chất

của loại hợp đồng này; chưa quy định khái niệm như thế nào là người thứ ba trong

hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba và các điều kiện về người thứ ba; vấn đề về

thực hiện hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba cũng như hệ quả của việc bên có

1 Reinmann, Mathias & Reinhard Zimmermann (2006), The Oxford Handbook of Comparative Law, OUP, Oxford, tr.

900.

2

nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ; quyền từ chối thụ hưởng lợi ích của người thứ

ba còn chưa thật sự rõ ràng; vấn đề về sửa đổi và huỷ bỏ hợp đồng vì lợi ích của

người thứ ba cũng chưa rõ ràng... Đây là những nội dung chủ yếu và rất quan trọng

trong hợp đồng nhưng thực tế việc áp dụng các quy định còn quá nhiều vướng mắc,

các điều khoản điều chỉnh chưa thật sự hợp lý dẫn đến việc ảnh hưởng đến quyền và

nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng lẫn người thứ ba được thụ hưởng lợi ích.

Ngoài ra, khi so sánh với hệ thống pháp luật của một số quốc gia (Anh, Pháp, Mỹ,

Nhật Bản… ), các Bộ nguyên tắc hợp đồng quốc tế thì các quy định này cũng chưa

bao quát được toàn bộ các vấn đề phát sinh từ hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, vấn đề cơ bản phải đặt ra là hệ thống pháp luật

của Việt Nam phải liên tục cải cách, học hỏi một cách có chọn lọc những điểm tiến

bộ trong hệ thống pháp luật của các quốc gia để hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp

luật của mình. Trên thế giới, hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba đã tồn tại từ lâu

đời và nhiều vấn đề liên quan đến loại hợp đồng này cũng được giải quyết, ví dụ

như: các án lệ của Mỹ, Nhật đều có đưa ra những điều kiện cơ bản để xác định

người thứ ba, hoặc như trong Bộ nguyên tắc Unidroit cũng có đưa ra khái niệm và

các yếu tố cơ bản để xác định bản chất của hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba. Do

đó, cần thiết phải nghiên cứu, xem xét những vấn đề liên quan đến hợp đồng vì lợi

ích của người thứ ba một cách cụ thể nhằm giúp xây dựng các quy định liên quan

đến loại hợp đồng này được hiệu quả hơn.

Xuất phát từ những vấn đề trên, tác giả đã chọn đề tài “Hợp đồng vì lợi ích

của người thứ ba trong pháp luật dân sự” làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

“Hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba” là một trong những vấn đề thuộc

phạm vi tìm hiểu của nhiều tác giả. Nội dung của sản phẩm nghiên cứu đã được thể

hiện trong nhiều nguồn tài liệu khác nhau như giáo trình, sách chuyên khảo, bình

luận án, tạp chí… Tuy nhiên vẫn chưa có một công trình nghiên cứu thật sự toàn

diện về nhiều khía cạnh của về vấn đề. Thông qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu,

tác giả nhận thấy một số tài liệu liên quan đến chế định “Hợp đồng vì lợi ích của

người thứ ba” có thể kể đến như sau:

- Sách chuyên khảo, giáo trình

+ Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình pháp luật về

hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb Hồng Đức - Hội luật gia

Việt Nam. Đây là giáo trình chính thống của trường Đại học luật TP.HCM, nội

dung giáo trình này tổng hợp một cách khái quát nhất các vấn đề liên quan đến pháp

3

luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trong đó, có các nội dung

liên quan đến “Hợp đồng đồng vì lợi ích của người thứ ba”, giáo trình này đã phân

tích một cách khái quát nhất về nội dung liên quan đến “Hợp đồng vì lợi ích của

người thứ ba”.

+ Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật hợp đồng Việt Nam

(quyển 2), Nxb Công an nhân dân; Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2017). Giáo

trình ghi nhận một cách khái quát các nội dung liên quan đến hợp đồng và bồi

thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Giáo trình này cũng phân tích một số nội dung liên

quan đến “Hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba”.

Nội dung của các giáo trình trên đã đề cập tới hợp đồng vì lợi ích của người

thứ ba trong mục phân tích các loại hợp đồng. Cụ thể, các giáo trình định nghĩa hợp

đồng vì lợi ích của người thứ ba và nêu khái quát nội dung của hợp đồng dựa trên

quy định của pháp luật. Tuy nhiên, giáo trình chưa đi sâu vào nghiên cứu và tìm

hiểu nhiều khía cạnh của vấn đề.

+ Đỗ Văn Đại (2018), Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản

án(tập 2), Nxb Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam. Trong cuốn sách này, tác giả đã

nghiên cứu một cách khá đầy đủ về một số vấn đề pháp lý có liên quan đến chế định

hợp đồng trong pháp luật Việt Nam qua việc bình luận các bản án liên quan đến

từng vấn đề cụ thể. Những bài viết về quy định chung của hợp đồng cũng có giá trị

tham khảo cao, ngoài ra, tác giả cũng đã có bàn về một số vấn đề liên quan đến

“Hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba”.

+ Nguyễn Văn Cừ – Trần Thị Huệ (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Dân

sự 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân.

Trong tài liệu này, tác giả đã bình luận từng điều luật cụ thể về hợp đồng vì lợi ích

của người thứ ba, cụ thể tác giả đã đề cập tới mối quan hệ giữa người thứ ba và các

bên, khẳng định người thứ ba không phải là một bên trong hợp đồng. Bên cạnh đó,

tác giả còn đặt nhiều giả thiết về quyền từ chối của người thứ ba và cho rằng điều

luật quy định vẫn chưa thực sự rõ ràng, đã giới hạn ý chí của người thứ ba và hạn

chế quyền sửa đổi, bổ sung hợp đồng của các bên giao kết. Nội dung của bình luận

khoa học trên đã khái quát được những bất cập trong quy định của pháp luật, tuy

nhiên vẫn chưa nghiên cứu thật sâu rộng và đưa ra kiến nghị cụ thể.

- Bài báo, tạp chí

+ Ngô Quốc Chiến (2015), “Một số kiến nghị về chế định hợp đồng vì lợi ích

của người thứ ba trong Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)”, Tạp chí Nhà nước và

Pháp luật, số 08. Tác giả đã nêu ra được những điểm bất cập trong quy định về hợp

4

đồng vì lợi ích của người thứ ba trong vấn đề về cách hiểu hợp đồng vì lợi ích của

người thứ ba, phân biệt hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba với một số giao dịch

dân sự khác có sự xuất hiện của người thứ ba. Bên cạnh đó, tác giả đưa ra những bất

cập về định nghĩa về “người thứ ba”, trách nhiệm của người thứ ba, hướng sửa đổi

hợp đồng và vấn đề về người thứ ba hoặc hoàn cảnh của người thứ ba thay đổi.

+ Nguyễn Ngọc Khánh (2011), “Hợp đồng vì lợi ích của người thứ 3”, Tạp

chí Toà án nhân dân, số 10/2011. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích một cách

khái quát một số khái niệm trong mối quan hệ hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba.

Đồng thời, tác giả đã đưa ra một số bất cập trong quy định về vấn đề này trong quy

định của Bộ luật Dân sự như: việc bắt buộc phải huỷ hợp đồng khi người thứ ba

không đồng ý thụ hưởng, người thứ ba không có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ

cho đến khi tranh chấp được giải quyết… Tuy nhiên, bài viết chỉ dừng lại ở phạm vi

nêu ra và phân tích ngắn gọn về một vài vấn đề nhất định trong quy định về hợp

đồng vì lợi ích của người thứ ba mà chưa đưa ra giải pháp, hướng giải quyết cụ thể

đối với vấn đề này.

+ Kiều Thị Thùy Linh (2014), “Hợp đồng dịch vụ vì lợi ích của người thứ ba

theo pháp luật dân sự hiện hành”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 4. Trong bài

viết này, tác giả đã khái quát được một số đặc điểm của hợp đồng vì lợi ích của

người thứ ba. Thông qua đó, tác giả cũng nêu lên được những điểm bất cập của các

quy định pháp luật khi điều chỉnh về hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba và đưa ra

những kiến nghị cụ thể trong từng điều luật áp dụng. Tuy nhiên, với phạm vi một

bài báo bị giới hạn về độ dài, tác giả chỉ đưa ra cái nhìn tổng quan chung cho từng

vấn đề mà vẫn chưa đi sâu vào từng vấn đề cụ thể như chưa phân tích được ý nghĩa

và nội hàm của các điều luật quy định về vấn đề này.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên phần lớn đã nêu lên được những

bất cập trong quy định của Bộ luật Dân sự 2005 và Dự thảo sửa đổi Bộ luật Dân sự

2005, đã đưa ra kiến nghị thông qua việc đi sâu vào nghiên cứu các vụ việc dân sự

liên quan trên thực tế. Tuy nhiên, do các công trình trên chỉ được thể hiện dưới hình

thức bài viết tạp chí nên vẫn chưa thực sự có thể đi sâu vào phân tích vấn đề một

cách cụ thể. Chính vì vậy, tác giả nhận thấy cần có một công trình nghiên cứu có

cách nhìn tổng quan hơn để góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật liên

quan đến vấn đề này. Do đó, tác giả lựa chọn tiến hành nghiên cứu về vấn đề “Hợp

đồng vì lợi ích của người thứ ba” để làm đề tài luận văn thạc sĩ.

- Tài liệu nước ngoài

5

Các tài liệu có liên quan đến hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba trong pháp

luật nước ngoài là khá đa dạng, phong phú, chủ yếu ở hình thức là các bài viết trên

các tạp chí khoa học pháp lý, sách chuyên khảo… Sau quá trình tìm hiểu ban đầu,

tác giả đã tổng hợp được một số nguồn tài liệu nước ngoài về hợp đồng vì lợi ích

của người thứ ba như sau:

+ International Institute for the Unification of Private Law (2016),

UNIDROIT Principles of International Commercial Contracts 2016, International

Institute for the Unification of Private Law (UNIDROIT), Rome.Mục 2 Chương 5

của Bộ Nguyên tắc UNIDROIT đã xây dựng một số quy định mẫu cho vấn đề

quyền của bên thứ ba trong hợp đồng, đưa ra các bình luận, cũng như các tình

huống minh họa cho các quy định trên. Các quy định trên có một số điểm khác biệt

với các quy định trong pháp luật Việt Nam rất đáng để xem xét.

+ Daniel Visser, Samantha Cook (2008), “Contracts for the Benefit of Third

Parties in South Africa – Investigating an Alternative Approach”, 26 Comp. Stud.

Cont'l & Anglo-Am. Legal Hist. 395. Trong bài viết này, các tác giả đã đưa ra các

phân tích liên quan đến hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba trong pháp luật Nam

Phi, đồng thời các tác giả cũng đã đưa ra một góc nhìn khác trong việc bảo vệ

quyền lợi của người thứ ba trong dạng hợp đồng này. Bài viết giúp tác giả có một

cái nhìn tổng quan về các quy định trong pháp luật Nam Phi liên quan đến hợp đồng

vì lợi ích của người thứ ba.

+ 加賀山茂, “第三者のためにする契約の位置づけ: 典型契約とは異

な, 契約総論に規定されている理由は何か?”, 明治学院大学法科大学院ロー

レビュー [tạm dịch: Kagayama Shigeru, “Vị trí của hợp đồng vì lợi ích của người

thứ ba: những khác biệt với hợp đồng cổ điển, lý do quy định trong phần tổng luận

hợp đồng là gì?”, Tạp chí Pháp luật Đại học Meiji]. Tài liệu này phân tích các đặc

điểm cũng như các quy định về hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba trong pháp luật

dân sự Nhật Bản, góp phần giúp tác giả có thêm nền tảng để hiểu rõ hơn các quy

định về hợp đồng này trong pháp luật Nhật Bản.

+ 道垣内弘人 (2019), リーガルベイシス民法入門 (第 3 版),日本経済新

聞出版社 [tạm dịch: Hiroto Dogauchi (2019), Giới thiệu về cơ sở pháp lý Luật Dân

sự (tái bản lần 3), Nxb. Nikkei]. Nội dung quyển sách đề cập một cách khái quát

các vấn đề liên quan đến pháp luật dân sự Nhật Bản, bao gồm cả vật quyền và trái

quyền. Ở phần trái quyền, tác giả cũng đề cập đến một số vấn đề khái quát liên quan

đến “Hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba”.

6

3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

3.1. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng như các quy

định của pháp luật hiện hành về hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba. Bên cạnh đó,

do công trình nghiên cứu còn tiến hành phân tích, đánh giá vấn đề thông qua thực

tiễn áp dụng pháp luật trong và ngoài nước nên mục đích của đề tài còn là tìm ra

những điểm bất cập trong quy định của pháp luật Việt Nam, từ đó đưa ra những

kiến nghị để hoàn thiện quy định trong Bộ luật Dân sự 2015 về vấn đề “Hợp đồng

vì lợi ích của người thứ ba”. Hơn nữa, công trình nghiên cứu còn nhằm giúp cho

các chủ thể có thể bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia

xác lập, thực hiện, chấm dứt hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba. Đề tài cũng là cơ

sở để các cơ quan áp dụng pháp luật có thể vận dụng một cách chính xác và tốt nhất

các quy định liên quan đến “Hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba”.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Đề tài có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề sau đây:

- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về hợp đồng vì lợi ích của người

thứ, như: khái niệm hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba, các điều kiện xác lập hợp

đồng vì lợi ích của người thứ ba, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong hợp đồng

vì lợi ích của người thứ ba.

- Nghiên cứu các quy định liên quan đến hợp đồng vì lợi ích của người thứ

ba trong hệ thống pháp luật của Việt Nam cũng như một số quốc gia trên thế giới và

đối chiếu, so sánh với các quy định của pháp luật Việt Nam đề học hỏi những điểm

tiến bộ trong các quy định về hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba.

- Trên cơ sở những bất cập cũng như những điểm tiến bộ đã được xác định,

đề xuất những kiến nghị, giải pháp pháp lý cụ thể trong việc sửa đổi, bổ sung các

qui định pháp luật Việt Nam hiện hành về hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba,

đồng thời xác định cơ sở lý luận và thực tiễn cần thiết làm căn cứ cho việc đề xuất

những kiến nghị và giải pháp cụ thể đó.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Về mặt nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu về các quy định trong chế định

hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba, cụ thể là quyền và nghĩa vụ của người thứ ba

cũng như các bên trong hợp đồng trong pháp luật dân sự Việt Nam. Bên cạnh đó,

tác giả cũng nghiên cứu các quy phạm liên quan đến hợp đồng vì lợi ích của người

thứ ba trong hệ thống pháp luật các quốc gia để có cái nhìn tổng quan hơn về vấn đề

này. Từ đó, đề tài nêu ra thực trạng áp dụng các quy định liên quan đến hợp đồng vì

7

lợi ích của người thứ ba ở Việt Nam cũng như một số quốc gia nhằm chỉ ra các

điểm bất cập trong việc áp dụng. Cuối cùng, đề tài được hoàn thiện với tinh thần

kiến nghị xây dựng các quy định về hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba tiến bộ,

hoàn thiện hơn.

Về văn bản pháp luật: Nội dung của đề tài chủ yếu nghiên cứu các quy định

liên quan đến hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba trong BLDS 2015 cũng như so

sánh, đối chiếu các quy định tương ứng trong các BLDS trước đó của Việt Nam

(BLDS 1995, BLDS 2005). Ngoài ra, tác giả cũng tiến hành nghiên cứu các quy

định liên quan đến hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba trong các văn bản pháp luật

nước ngoài nhằm học hỏi kinh nghiệm cho pháp luật Việt Nam.

5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu các vấn đề theo “chiều dọc” nhằm làm rõ hơn các nội dung

liên quan đến hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba. Trong mỗi chương tác giả giải

quyết dứt điểm một vấn đề lớn từ góc độ lý luận, thực tiễn cũng như đưa ra đề xuất

hoàn thiện pháp luật. Do đó, đối với từng chương, luận văn đã vận dụng nhiều

phương pháp nghiên cứu khác nhau để có thể phân tích, lý giải, giúp người đọc hiểu

rõ hơn các vấn đề mà tác giả đưa ra, cụ thể như sau:

- Phương pháp tổng hợp được sử dụng xuyên suốt nội dung đề tài với mục

đích cung cấp đầy đủ nhưng có chọn lọc các quy định pháp luật Việt Nam, những

vụ việc tranh chấp trong thực tiễn và các quy định pháp luật nước ngoài liên quan

trực tiếp đến hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba.

- Phương pháp phân tích được sử dụng xuyên suốt đề tài nhằm giải thích rõ

quy định pháp luật hiện hành, khai thác các vấn đề pháp lý phát sinh trong những vụ

tranh chấp thực tế và lý giải các đề xuất của tác giả khi giải quyết từng nội dung

trong mỗi chương.

- Phương pháp so sánh được sử dụng tác giả trình bày từng vấn đề pháp lý và

so sánh với pháp luật Hoa Kỳ, Châu Âu và Nhật Bản, Bộ Nguyên tắc Unidroit về

Hợp đồng thương mại quốc tế.

- Phương pháp biện chứng được sử dụng với mục đích xem xét sự phản ánh

và mối liên hệ qua lại giữa quy định với thực tiễn áp dụng.

- Trong quá trình tìm hiểu thực tiễn nhằm giải quyết các vấn đề ở Chương 2

và Chương 3, tác giả sử dụng phương pháp bình luận án cũng là phương pháp quan

trọng nhất để nhìn nhận vấn đề pháp lý trong từng vụ việc liên quan đến đề tài, từ

đó kết luận được thực trạng áp dụng pháp luật tại Việt Nam.

8

6. Dự kiến điểm mới của đề tài

Đề tài nghiên cứu đóng vai trò là một công trình nghiên cứu có hệ thống về

các vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba, đề tài cũng

đưa ra các kiến nghị và định hướng đóng vai trò là cơ sở khoa học cho việc xây

dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, góp phần giúp giải quyết các vấn

đề bất cập liên quan đến hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba, tạo điều kiện thuận

lợi hơn cho các chủ thể khi tiến hành trao đổi lợi ích trong nền kinh tế thị trường.

Cụ thể đề tài dự kiến sẽ đưa ra được một số đóng góp sau:

Thứ nhất, thông qua việc nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về hợp đồng

vì lợi ích của người thứ ba trong các tài liệu liên quan trong nước và ngoài nước, đề

tài có thể chỉ ra được những điểm chưa rõ ràng trong việc hiểu và áp dụng các quy

định liên quan đến hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba trên thực tiễn áp dụng pháp

luật. Từ đó tạo cơ sở khoa học tốt hơn để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật.

Thứ hai, đề tài nghiên cứu các quy định liên quan đến hợp đồng vì lợi ích

của người thứ ba trong các văn bản pháp luật nước ngoài, đồng thời tìm hiểu cách

hiểu của các quy định này thông qua các bản ản, án lệ có liên quan trong pháp luật

dân sự của một số quốc gia nhằm so sánh với các quy định trong BLDS Việt Nam.

Từ đó, xem xét những điểm khác biệt cũng như thiếu sót trong các quy định của

BLDS Việt Nam và đưa ra những đề xuất, kiến nghị phù hợp để hoàn thiện các quy

định liên quan đến hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba.

Tác giả hy vọng những kết quả nghiên cứu trên sẽ giúp luận văn có giá trị

tham khảo hữu ích cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà nghiên cứu và

người học liên quan đến các vấn đề về hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung

của luận văn bao gồm 3 chương:

Chương 1. Những vấn đề cơ bản về hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba

trong pháp luật dân sự Việt Nam

Chương 2. Điều kiện xác lập hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba trong pháp

luật dân sự Việt Nam

Chương 3. Quyền của người thứ ba trong hợp đồng vì lợi ích của người thứ

ba trong pháp luật dân sự Việt Nam

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!