Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Hội nhập tạo ra cạnh tranh sống còn trong toàn bộ nền kinh tế và ngành ngân hàng pdf
MIỄN PHÍ
Số trang
75
Kích thước
452.4 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1489

Hội nhập tạo ra cạnh tranh sống còn trong toàn bộ nền kinh tế và ngành ngân hàng pdf

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Luận văn tốt nghiệp:

Hội nhập tạo ra cạnh tranh sống còn trong

toàn bộ nền kinh tế và ngành ngân hàng



Lời mở đầu

Đất nước ta đang trong thời kỳ biến đổi mạnh mẽ của nền kinh tế, thời kỳ đẩy

mạnh CNH - HĐH đất nước, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển và

nâng cao chất lượng cuộc sống. Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương “phát huy nội

lực bên trong, nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định, nguồn vốn nước

ngoài giữ vai trò quan trọng”. Đồng thời, quá trình hội nhập kinh tế khu vực và

quốc tế đang diễn ra hết sức sôi động. Điều đó đồng nghĩa với sự cạnh tranh đã,

đang và sẽ diễn ra ngày càng khốc liệt trong toàn bộ nền kinh tế nói chung và

ngành ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy, việc khai thông nguồn vốn đối hoạt động

huy động vốn của các NHTM nói chung được đặt ra rất bức thiết. Các Ngân hàng

hiện nay hoạt động đòi hỏi phải có hiệu quả cao, vấn đề huy động vốn không chỉ

được quan tâm “từ đâu?” mà phải được tính đến “như thế nào?”, “bằng cách gì” để

có hiệu quả cao nhất, đáp ứng nhu cầu cho vay của Ngân hàng nhưng lại đòi hỏi chi

phí thấp nhất.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác huy động vốn trong hoạt động của Ngân

hàng. Với những kiến thức đã học và qua thực tế tại Sở giao dich ngân hàng Công

thương Việt Nam, em xin mạnh dạn chọn đề tài "Công tác huy động vốn tại Sở

giao dịch I Ngân hàng Công thương Việt Nam.Thực trạng và giải pháp ".

Ngoài phần mở đầu, kết thúc, danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề được trình

bày theo 3 chương.

Chương I : Những vấn đề cơ bản về công tác huy động vốn trong hoạt động kinh

doanh của ngân hàng thương mại.

Chương II : Thực trạng công tác huy động vốn của SGD I NHCT VN

Chương III : Những giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác huy động

vốn tại SGD I NHCT VN

. Do thời gian nghiên cứu cũng như kiến thức thực tế không nhiều, bài chuyên

đề của em còn nhiều điểm chưa đề cập đến và còn có những thiếu sót nhất định.

Rất mong nhận được sự góp ý của các thày, cô giáo cùng các bạn để khoá luận

được hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo, cán bộ hướng dẫn khóa luận

cùng toàn thể các anh chị trong Sở giao dịch I Ngân hàng Công thương Việt Nam

đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong thời gian thực tập và nghiên cứu viết chuyên đề.

Đặc biệt em xin chân thành cám ơn T.S Lê Văn Luyện đã có hướng dẫn và giúp đỡ

em viết chuyên đề này.

Chương 1: Những vấn đề cơ bản về huy động vốn trong hoạt động kinh doanh của

ngân hàng thương mại

1.1. Hoạt động kinh doanh của NHTM trong nền kinh tế thị trường

1.1.1. KháI niệm về ngân hàng thương mại

Để đưa ra được một định nghĩa về ngân hàng thương mại, người ta thường phải dựa

vào tính chất mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính và đôi khi còn kết

hợp tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động.Với mỗi quốc gia khác nhau, hình

thành một khái niệm khác nhau về NHTM.

Theo Luật Ngân hàng Đan Mạch năm 1930: “Những nhà băng thiết yếu bao

gồm những nghiệp vụ nhận tiền gửi, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại và

các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ

chuyển ngân, đứng ra bảo hiểm...”

Theo Luật Ngân hàng Pháp năm 1941: “NHTM là những xí nghiệp hay cơ

sở hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình

thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín

dụng hay dịch vụ tài chính”.

Theo Luật của các TCTD tại Việt Nam:“Ngân hàng là TCTD thực hiện toàn

bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”

“Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ, chủ yếu là nhận tiền

gửi, sử dụng số tiền đó để cho vay và thực hiện các nghiệp vụ thanh toán”.

“NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân

hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận góp

phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước”.

Mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau, nhưng khi phân tích khai thác nội dung

của các định nghĩa đó, người ta dễ nhận thấy các NHTM đều có chung một tính

chất, đó là: việc nhận tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn để sử dụng vào các

nghiệp vụ cho vay, đầu tư và các dịch vụ kinh doanh khác của chính ngân hàng

1.1.2 Vai trò của ngân hàng thương mại

Từ khái niệm về NHTM nêu trên áp dụng vào thực tế nước ta, một nước có

hơn 80% dân số sống bằng nghề nông, việc phát triển sản xuất theo chiều hướng

CNH- HĐH rất cần đến NHTM với vai trò to lớn của nó. Nhất là khi quá trình

CNH - HĐH của chúng ta đã đi vào chiều sâu, yêu cầu cần có vốn để xây dựng cơ

sở hạ tầng, tăng tốc đầu tư, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo nhịp độ

tăng trưởng kinh tế nhanh và lâu bền, thực hiện thành công các mục tiêu phát triển

kinh tế năm thì vai trò của các NHTM càng được Đảng và Nhà nước ta coi trọng.

a. NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế

Vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh

nghiệp và các tổ chức trong nền kinh tế. Vì vậy, muốn có nhiều vốn phải tăng thu

nhập quốc dân, có mức độ tiêu dùng hợp lý. Tăng thu nhập quốc dân đồng nghĩa

với việc mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hoá, đẩy mạnh sự phát triển của các

ngành trong nền kinh tế. Điều đó muốn làm được lại cần có vốn. Vốn được coi như

nguồn “thức ăn” chính thức cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh

nghiệp. Khi “thức ăn” bị thiếu, doanh nghiệp sẽ mất đi cơ hội đầu tư mới hoặc

không tiến hành kịp thời quá trình tái sản xuất. NHTM chính là người đứng ra tiến

hành khơi thông nguồn vốn nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh

tế... Thông qua hình thức cấp tín dụng, ngân hàng đã tạo điều kiện cho doanh

nghiệp có khả năng mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc, thiết bị, đổi mới qui trình

công nghệ, nâng cao năng suất lao động đem lại hiệu quả kinh tế, cũng có nghĩa là

đưa doanh nghiệp lên những nấc thang cạnh tranh cao hơn. Cạnh tranh càng mạnh

mẽ, kinh tế càng phát triển. Như vậy với khả năng cung cấp vốn, NHTM đã trở

thành một trong những điểm khởi đầu cho sự phát triển kinh tế của quốc gia.

b. NHTM là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường, giúp cho các nhà

kinh doanh trong xây dựng chiến lược quản lý doanh nghiệp.

Thị trường ở đây được hiểu ở hai góc độ, thị trường đầu vào và thị trường

đầu ra của doanh nghiệp. Để có thể tiến hành bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào,

doanh nghiệp cần phải tham gia vào thị trường đầu vào nhằm thực hiện thành công

chiến lược 5P: Product (sản phẩm), Price (giá cả), Promotion (giao tiếp, khuyếch

trương), Place (địa điểm) và People (con người). Từ đó tiếp cận mạnh mẽ vào thị

trường đầu ra, tìm kiếm lợi nhuận. Qui trình đó chỉ được bắt đầu khi doanh nghiệp

trang bị được đầy đủ vốn cần thiết. Nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có

đủ khả năng về tài chính. Do vậy, buộc họ phải tìm kiếm vốn phục vụ chính họ.

Nguồn vốn tín dụng của NHTM sẽ giúp các doanh nghiệp giải quyết những khó

khăn đó, tạo cho doanh nghiệp có đủ khả năng thoả m•n tối đa nhu cầu của thị

trường trên mọi phương diện: giá cả, chủng loại, chất lượng, thời gian, địa điểm...

NHTM sẽ là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường gần nhau hơn cả về không

gian và thời gian.

c. NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế

Trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá như hiện nay thì vai trò này ngày càng thể

hiện rõ rệt hơn. áp lực cạnh tranh buộc nền kinh tế mỗi quốc gia khi mở cửa hội

nhập phải có tiềm lực lớn mạnh về mọi mặt, đặc biệt là tiềm lực về tài chính.

Nhưng làm thế nào để có thể hoà nhập nền tài chính của một quốc gia với phần còn

lại của thế giới? Câu hỏi đó sẽ được giải đáp nhờ vào hệ thống các NHTM vì hệ

thống này có khả năng cung cấp nhiều loại hình dịch vụ khác nhau hỗ trợ cho việc

đầu tư từ nước ngoài vào trong nước theo các hình thức: thanh toán quốc tế, nghiệp

vụ hối đoái, cho vay uỷ thác đầu tư... giúp cho luồng vốn ra, vào một cách hợp lý,

đưa nền tài chính nước nhà bắt kịp với nền tài chính quốc tế. Đây là một trong

những điều kiện tiên quyết cho tiến trình hội nhập kinh tế ở các quốc gia trên thế

giới.

d. Ngân hàng thương mại là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế

vì hoạt động Ngân hàng góp phần chống lạm phát.

Một trong những con đường dẫn đến lạm phát của nền kinh tế là lạm phát qua con

đường tín dụng. Khi xảy ra lạm phát, ngân hàng trung ương sẽ tăng tỉ lệ vào dự trữ

bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu hoặc tham gia vào thị trường mở để thông qua các

ngân hàng thương mại thay đổi lại lượng tiền trong lưu thông. Các Ngân hàng

thương mại sẽ kiểm soát lạm phát thông qua các hoạt động tín dụng, bảo lãnh. Từ

đó ngân hàng xác định được hướng đầu tư vốn và đề ra các biện pháp xử lý những

tác động xấu ảnh hưởng đến nền kinh tế, làm cho quá trình tái sản xuất diễn ra liên

tục, góp phần điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế

lạm phát.

1.1.3 Các nghiệp vụ cơ bản của NHTM

a- Nghiệp vụ tài sản nợ và vốn tự có của NHTM

Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình tạo vốn của NHTM mà cụ thể là hình

thành nên nguồn vốn của NHTM. Nguồn vốn của NHTM bao gồm:

*Vốn tự có:

Vốn tự có là vốn riêng có của NHTM. Vốn này tuy chiếm tỉ trọng nhỏ trong

tổng vốn của NHTM song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một ngân

hàng. Mặt khác, với chức năng bảo vệ, vốn tự có được coi như là tài sản đảm bảo

gây lòng tin đối với khách hàng, duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp ngân

hàng gặp thua lỗ. Vốn tự có cũng là căn cứ để tính toán các tỷ lệ đảm bảo an toàn

trong hoạt động ngân hàng.

Trong thực tế, vốn tự có không ngừng được tăng lên từ kết quả hoạt động

kinh doanh của bản thân ngân hàng mang lại. Bộ phận vốn này đóng góp một phần

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!