Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Hoạt động truyền giáo của đạo tin lành ở Việt Nam và Trung Quốc (từ khởi đầu đến đổi mới - cải cách mở cửa)
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------------------
VŨ THỊ THU HÀ
HOẠT ĐỘNG TRUYỀN GIÁO
CỦA ĐẠO TIN LÀNH Ở VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC
(Từ khởi đầu đến đổi mới – cải cách mở cửa)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÔN GIÁO HỌC
HÀ NỘI - 2014
2
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------------------
VŨ THỊ THU HÀ
HOẠT ĐỘNG TRUYỀN GIÁO
CỦA ĐẠO TIN LÀNH Ở VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC
(Từ khởi đầu đến đổi mới – cải cách mở cửa)
Chuyên ngành: Tôn giáo học
Mã số: 62.22.90.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÔN GIÁO HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Nguyễn Hồng Dƣơng
HÀ NỘI - 2014
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các số liệu trong luận án là
trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết
luận khoa học của luận án chưa từng được
công bố trên bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Vũ Thị Thu Hà
4
MỤC LỤC
Lời cam đoan II
Mục lục III
Danh mục các chữ viết tắt IV
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 9
1.1.Những công trình nghiên cứu liên quan đến lịch sử truyền giáo của
đạo Tin Lành ở Việt Nam
9
1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến lịch sử truyền giáo của
đạo Tin Lành ở Trung Quốc
15
1.3. Một số thuật ngữ sử dụng trong luận án 18
1.4. Khái quát quá trình ra đời và phát triển của đạo Tin Lành 19
1.5. Quá trình truyền giáo của đạo Tin Lành ở Việt Nam và Trung
Quốc từ khi du nhập đến thời kì đổi mới – cải cách mở cửa
25
Chƣơng 2: HOẠT ĐỘNG TRUYỀN GIÁO VÀ QUAN HỆ CỦA ĐẠO TIN
LÀNH VỚI ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TỪ KHI DU
NHẬP ĐẾN KHI ĐẤT NƢỚC BƢỚC VÀO THỜI KÌ ĐỔI MỚI (1911 - 1986)
33
2.1. Lực lượng truyền giáo 33
2.2. Phương pháp truyền giáo 44
2.3. Đối tượng truyền giáo 57
2.4. Cộng đồng đạo Tin Lành và xã hội Việt Nam 59
2.5. Thái độ ứng xử của các chính quyền ở Việt Nam đối với đạo Tin Lành 64
Tiểu kết chương 2 67
Chƣơng 3: HOẠT ĐỘNG TRUYỀN GIÁO VÀ QUAN HỆ CỦA ĐẠO TIN LÀNH
VỚI ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở TRUNG QUỐC TỪ KHI DU NHẬP
ĐẾN KHI ĐẤT NƢỚC BƢỚC VÀO THỜI KÌ CẢI CÁCH MỞ CỬA (1807 - 1979)
69
3.1. Lực lượng truyền giáo 69
3.2. Phương pháp truyền giáo 79
3.3. Đối tượng truyền giáo 88
3.4. Cộng đồng đạo Tin Lành và xã hội Trung Quốc 90
3.5. Thái độ ứng xử của các chính quyền ở Trung Quốc đối với đạo Tin Lành 103
Tiểu kết chương 3 109
Chƣơng 4: NHỮNG ĐIỂM TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT TRONG QUÁ TRÌNH
TRUYỀN GIÁO CỦA ĐẠO TIN LÀNH ỞVIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC
111
4.1. Về bối cảnh chính trị, xã hội và tôn giáo ở hai nước 111
4.2. Về lực lượng truyền giáo, phương pháp truyền giáo và đối tượng
truyền giáo của đạo Tin Lành ở hai nước
113
4.3. Về quan hệ giữa đạo Tin Lành với chính trị, xã hội ở hai nước 118
4.4. Mức độ đóng góp của đạo Tin Lành trong đời sống văn hoá, xã hội ở hai nước 130
5
Tiểu kết chương 4 146
KẾT LUẬN 148
TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ
163
6
CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
STT VIẾT TẮT NỘI DUNG CHỮ VIẾT TẮT
1 Nxb Nhà xuất bản
2 Tp. Hà Nội Thành phố Hà Nội
3 Tp. Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh
4 CTQG Chính trị quốc gia
5 KHXH Khoa học xã hội
6 HN Hà Nội
7 C&MA Hội Truyền giáo Phúc âm liên hiệp
8 Tr. Trang
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
Đối với lịch sử phát triển của một tôn giáo, hoạt động truyền giáo là cơ sở
quyết định việc tôn giáo đó có tạo được chỗ đứng vững chắc tại một miền đất
mới hay không. Truyền giáo là phương pháp bảo vệ sự sinh tồn vững mạnh của
một tôn giáo. Đặc biệt đối với đạo Tin Lành, hoạt động truyền giáo luôn được
đặt lên hàng đầu vì đó là nhiệm vụ, trách nhiệm và sứ mệnh vinh quang (theo lời
Chúa) của từng cá nhân tín đồ. Sứ mệnh truyền giáo được đề cao bởi mệnh lệnh
của Chúa Giêsu ghi trong Kinh Thánh: “Nhưng khi Thánh-Linh giáng trên các
ngươi, thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền năng, rồi làm chứng nhân cho ta tại Giêru-sa-lem, cả Giu-đê, Sa-ma-ri, và cho đến cùng trái đất” (Công vụ các sứ đồ
1:8); “Hãy đi khắp thế gian, giảng tin lành cho mọi người” (Mac 16:15); và “Hãy
đi khiến muôn dân trở nên môn-đồ ta, làm báp-têm cho họ nhơn danh Cha, Con,
và Thánh-Linh” (Ma-thi-ơ 28: 19-20)[57]. Do vậy, tìm hiểu về hoạt động truyền
giáo của đạo Tin Lành là tìm hiểu về toàn bộ những hoạt động chủ yếu của tôn
giáo này. Trong bối cảnh đạo Tin Lành đang phát triển đột biến tại Việt Nam
hiện nay, việc nghiên cứu, tìm hiểu về truyền giáo của đạo Tin Lành mang ý
nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc.
Đạo Tin Lành là một tôn giáo lớn trên thế giới, đứng hàng thứ 3 về số
lượng tín đồ và phạm vi hoạt động chỉ sau Islam giáo và Công giáo. Đạo Tin
Lành có ảnh hưởng rất lớn trong đời sống chính trị - xã hội, trong tâm lí, lối sống,
phong tục tập quán của nhiều nước. Đặc biệt đạo Tin Lành là tôn giáo hoạt động
khá năng động, nghi lễ, lối sống đạo nhẹ nhàng đơn giản, đề cao vai trò cá nhân,
tinh thần dân chủ nên nó không chỉ phù hợp với tâm lí, lối sống của xã hội công
nghiệp mà còn thích ứng với các cộng đồng dân tộc thiểu số. Vì vậy, mặc dù ra
đời muộn hơn so với các tôn giáo lớn khác nhưng đạo Tin Lành đã phát triển rất
nhanh chóng trên phạm vi toàn thế giới, đặc biệt ở những nước công nghiệp phát
triển.
Ở Việt Nam đạo Tin Lành bắt đầu du nhập và phát triển từ đầu thế kỉ XX.
Thời kì đầu do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chủ yếu là do bị
chính quyền thực dân Pháp ngăn cấm nên đạo Tin Lành phát triển chậm. Chỉ đến
8
thời kì đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam (1954 – 1975), đạo Tin Lành mới có
môi trường thuận lợi để phát triển mạnh mẽ ở các khu vực tại miền Nam. Sau
ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Việt Nam thống nhất, do nhiều nguyên
nhân khách quan và chủ quan, đạo Tin Lành ở miền Nam bị hạn chế. Thời gian
gần đây, đạo Tin Lành đã phát triển trở lại với tốc độ nhanh đột biến, đặc biệt
trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Hiện nay có những địa phương số
người theo đạo Tin Lành tăng gấp vài ba lần, thậm chí có nơi tăng gấp cả chục
lần so với năm 1975. Việc đạo Tin Lành phát triển nhanh đột biến trong thời
gian qua đã và đang đặt ra nhiều vấn đề phức tạp cần phải giải quyết, thu hút sự
quan tâm của các nhà nghiên cứu, các cấp, các ngành có liên quan.
Trung Quốc là quốc gia láng giềng với Việt Nam và là nước có ảnh hưởng
sâu sắc đến văn hoá, xã hội nước ta, có cùng thể chế chính trị là chế độ xã hội
chủ nghĩa. Hơn nữa Trung Quốc là một trong những con đường đạo Tin Lành đi
qua khi truyền giáo vào Việt Nam.
So với Việt Nam, đạo Tin Lành được du nhập vào Trung Quốc sớm hơn
khoảng một trăm năm. Mốc thời gian đánh dấu đạo Tin Lành du nhập vào Trung
Quốc là năm 1807. Giai đoạn đầu do triều đình nhà Thanh thực thi chính sách
đóng cửa tự thủ, cấm người nước ngoài truyền giáo cùng với sự khác biệt về lối
sống văn hóa nên đạo Tin Lành phát triển rất chậm. Sau hai cuộc chiến tranh nha
phiến năm 1840 và 1860 các hệ phái Tin Lành Phương Tây đã phái hàng ngàn
giáo sĩ đến Trung Quốc truyền giáo, xây dựng các cơ sở y tế, giáo dục, từ thiện
xã hội. Tuy nhiên, kết quả phát triển đạo cũng chưa được như mong muốn của
các giáo sĩ. Sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập năm 1949,
Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện việc dẫn dắt các tôn giáo đi theo chủ nghĩa
xã hội, đạo Tin Lành đã dần đi vào ổn định và phát triển nhanh chóng. Điều đáng
chú ý là vào thời kì này đạo Tin Lành ở Trung Quốc phát triển theo mô hình
riêng, đặc biệt chỉ có ở Trung Quốc, đó là sự hình thành Phong trào Tin Lành
Yêu nước Tam tự (tự trị, tự dưỡng, tự truyền). Nhưng điều này hiện nay đang đặt
Chính phủ Trung Quốc đứng trước thách thức không nhỏ, vì trên thực tế ngoài
bộ phận tín đồ đạo Tin Lành nằm trong Phong trào Tam Tự vẫn còn một bộ phận
Hội Thánh tư gia không đăng kí với chính quyền đang phát triển một cách rất
phức tạp và không kiểm soát nổi.
9
Trong điều kiện hội nhập quốc tế, việc tìm hiểu, so sánh đạo Tin Lành ở
nước ta với đạo Tin Lành ở nước láng giềng Trung Quốc, nhất là trong giai đoạn
từ buổi đầu truyền giáo đến khi hai nước bắt đầu thực hiện chính sách đổi mới -
cải cách mở cửa, tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt trong truyền giáo
của đạo Tin Lành ở hai nước để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm trong việc ứng
xử với tôn giáo này là việc làm cần thiết, có ý nghĩa lí luận và thực tiễn. Đây là
giai đoạn hai nước có những bối cảnh biến động chính trị khá giống nhau, cùng
từ chế độ nửa phong kiến nửa thuộc địa, trải qua cuộc đấu tranh giành độc lập và
xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cho đến nay vấn đề này vẫn còn
bỏ trống, chưa được quan tâm nghiên cứu. Từ lí do trên, tôi chọn đề tài: Hoạt
động truyền giáo của đạo Tin Lành ở Việt Nam và Trung Quốc ( từ khởi đầu
đến đổi mới – cải cách mở cửa) làm đề tài luận án tiến sĩ Tôn giáo học.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích của luận án
Trên cơ sở nghiên cứu hoạt động truyền giáo của đạo Tin Lành ở Việt
Nam và Trung Quốc chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt trong quá trình
truyền giáo của đạo Tin Lành ở hai quốc gia này giai đoạn từ buổi đầu đến khi
hai nước bắt đầu thực hiện chính sách đổi mới - cải cách mở cửa. Từ đó thấy
được hệ luận của việc truyền giáo đối với sự phát triển của đạo Tin Lành và mức
độ ảnh hưởng qua lại giữa đạo Tin Lành với xã hội bản địa nơi nó đến truyền
giáo.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
Để thực hiện mục đích trên, luận án đặt ra nhiệm vụ:
- Tìm hiểu bối cảnh chính trị, văn hoá, xã hội, tôn giáo ở mỗi nước khi đạo
Tin Lành bắt đầu du nhập.
- Trình bày quá trình truyền giáo của đạo Tin Lành ở Việt Nam cũng như
ở Trung Quốc giai đoạn từ khi du nhập đến khi hai nước bắt đầu thực hiện chính
sách đổi mới - cải cách mở cửa.
- Tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt trong truyền giáo của đạo
Tin Lành ở hai nước.
- Chỉ ra được những hệ luận của truyền giáo đối với sự phát triển của đạo
Tin Lành.
10
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là hoạt động truyền giáo của đạo Tin
Lành tại hai nước Việt Nam và Trung Quốc, bao gồm những vấn đề như: chủ thể
truyền giáo, đối tượng truyền giáo, phương pháp truyền giáo và mức độ ảnh
hưởng qua lại giữa đạo Tin Lành và chính trị, xã hội của hai nước.
- Phạm vi nghiên cứu của luận án tập trung vào giai đoạn từ khi đạo Tin
Lành du nhập đến khi hai nước bắt đầu thực hiện chính sách đổi mới - cải cách
mở cửa.
4. Cơ sở lí thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu
4. 1. Cơ sở lí thuyết
Tôn giáo là một hiện tượng văn hóa - xã hội phức tạp, có thể nói nó là một
thể văn hóa thống nhất nhiều tầng diện. Tôn giáo vừa có tính cộng đồng vừa có
tính riêng tư cá nhân, vừa có tính dân tộc vừa có tính thế giới, vừa có cở sở xã
hội vừa có cơ sở tâm lí, vừa có tính duy lí vừa có tính duy tình, vừa có niềm tin
theo đuổi cái thiêng liêng cao cả lại vừa có sự suy tư đi tìm cái thực tại trong
cuộc sống nhân gian hiện thực. Tôn giáo có liên quan chặt chẽ đến sự phát triển
và hưng suy của văn hóa tinh thần nhân loại. Xét từ góc độ bảo tồn văn hóa dân
tộc và hoằng dương giá trị văn hóa dân tộc, tôn giáo chính là yếu tố chuyển tải
linh hồn của dân tộc và là chất môi giới của giao lưu văn hóa.
Ngành tôn giáo học hiện nay sử dụng nhiều lí thuyết trong quá trình
nghiên cứu tôn giáo. Trong luận án này tác giả chủ yếu sử dụng những lí thuyết
sau:
- Lí thuyết sử học tôn giáo: Sử học tôn giáo là xuất phát từ lịch sử phát
triển mà tôn giáo đã trải qua để nhận thức về bản thân tôn giáo. Nhiệm vụ của nó
là nghiên cứu sự thực lịch sử của các loại tôn giáo, vạch ra con đường phát triển
lịch sử của nó. Sử học tôn giáo là cơ sở cho các chuyên ngành khác của tôn giáo
học, có mối liên hệ mật thiết với sử học, khảo cổ học. Nó nghiên cứu tôn giáo
thông qua mô tả lịch sử, khảo sát ngôn ngữ, thực tiễn khảo cổ. Tác giả sử dụng lí
thuyết này để chiếu rọi những sự kiện lịch sử đã diễn ra trên khía cạnh nó tác
động như thế nào đến vấn đề truyền giáo.
- Lí thuyết xã hội học tôn giáo: xã hội học tôn giáo hình thành vào đầu
thế kỉ XX. Học giả người Pháp Emile Durkheim (1858 - 1917) khi nghiên cứu
11
vấn đề tôn giáo xã hội nguyên thủy và học giả người Đức Max Weber (1864 –
1920) khi nghiên cứu vấn đề tôn giáo xã hội công nghiệp đã có những cống hiến
độc đáo, từ đó sáng lập nên hệ thống xã hội học tôn giáo. Xã hội học tôn giáo lí
giải tôn giáo là sự tồn tại khách quan của xã hội. Bộ môn này quan tâm đến tôn
giáo vì tôn giáo là một hiện tượng xã hội. Tôn giáo vừa chịu sự chế ước của sự
phát triển xã hội, vừa có liên quan nhất định với đoàn thể xã hội. Xã hội học tôn
giáo nghiên cứu tác dụng và quan hệ tương hỗ của tôn giáo với xã hội, tìm hiểu ý
nghĩa tôn giáo của đoàn thể xã hội con người, nhu cầu và bài xích của xã hội đối
với tôn giáo và sự phân bố tôn giáo trong các giai tầng xã hội, ý nghĩa của tôn
giáo truyền bá trong xã hội. Lí thuyết về xã hội học tôn giáo cho rằng tôn giáo
chính là nhân tố kết cấu của xã hội loài người có nội dung hết sức hiện thực. Tôn
giáo là một loại hiện tượng xã hội, thần thánh chính là biểu trưng của thể thống
nhất xã hội. Biểu trưng tôn giáo chính là biểu hiện của sự đoàn kết hợp nhất
trong xã hội, cũng giống như biểu trưng của dân tộc, chính trị trong xã hội hiện
đại có ý nghĩa to lớn đối với sự sinh tồn của xã hội. Xã hội học tôn giáo khi lí
giải “tôn giáo” thường sử dụng khái niệm chức năng, tức là “thuyết chức năng”,
nhấn mạnh chức năng, tác dụng của tôn giáo trong đoàn thể xã hội. Sử dụng lí
thuyết này tác giả chủ yếu quan tâm đến chức năng xã hội của đạo Tin Lành.
- Lí thuyết địa - tôn giáo: địa - tôn giáo ra đời ở nước Đức với các học giả
đại diện như Immanuel Kant (1724-1804), Alexander Von Humboldt (1769-
1859) và Carl Ritter (1779-1859). Đây là bộ môn khoa học nghiên cứu mối quan
hệ tương hỗ giữa tôn giáo với không gian địa lí, nó nằm giữa tôn giáo học và địa
lí học nhân văn, chuyên nghiên cứu những vấn đề có tính hỗ trợ lẫn nhau giữa
tôn giáo và khu vực địa lí. Địa - tôn giáo là sự kết hợp nghiên cứu tôn giáo với
nghiên cứu vị trí địa lí và mối quan hệ qua lại của các khu vực khác nhau trên
trái đất. Những vấn đề bộ môn địa - tôn giáo nghiên cứu bao gồm: sự phân bố và
biến hóa của tôn giáo trong các thời kì lịch sử khác nhau trên các khu vực địa lí
thế giới; ý nghĩa tôn giáo chứa đựng trong cảnh quan tự nhiên và cảnh quan nhân
văn; sự phản ảnh và khúc xạ diện mạo địa lí đặc thù trong tôn giáo; hướng khu
vực địa lí mà tôn giáo truyền bá; tình trạng di chuyển của các quần thể tôn giáo;
đặc điểm địa lí của các tôn giáo và thánh địa của các tôn giáo trên khắp thế giới.
12
Tôi sử dụng lí thuyết này để thấy được tính chất vùng miền ảnh hưởng như thế
nào đến sự phát triển của đạo Tin Lành tại Việt Nam và Trung Quốc.
- Lí thuyết văn hóa học tôn giáo: đại diện khai phá lí thuyết này là các
nhà khoa học như Max Weber, Malinowski, Christopher Dawson, Arnold Joseph
Toynbee và Ernst Cassier.
Lí thuyết này đứng chân trên văn hóa thế tục để giải thích, trình bày những
đặc tính, địa vị công năng, bản chất và ý nghĩa nhân văn của tín ngưỡng, tôn giáo.
Nhấn mạnh mối quan hệ giữa tôn giáo và văn hóa.
Tác giả áp dụng những lí thuyết này để tìm hiểu mối liên hệ giữa đạo Tin
Lành với văn hóa, xã hội, chính trị ở Việt Nam và Trung Quốc, từ đó tìm ra đặc
điểm truyền giáo của đạo Tin Lành ở hai nước này.
- Lí thuyết tôn giáo học so sánh: Nhà khoa học Friedrich Max Muller
(1823 – 1900) được coi là người đầu tiên sáng lập ra lí thuyết này với câu nói nổi
tiếng: “Người chỉ hiểu một tôn giáo, kì thực không hiểu một tôn giáo nào cả”.
Tôn giáo học so sánh lấy lịch sử tôn giáo làm cở sở, sử dụng một cách
không có phê phán thành quả nghiên cứu của sử học tôn giáo, nhưng không phát
triển theo “chiều dọc” của nghiên cứu lịch sử tôn giáo, mà chỉ nhấn mạnh sự so
sánh theo “chiều ngang” giữa các tôn giáo.
Tác giả áp dụng lí thuyết này để triển khai nghiên cứu về đạo Tin Lành ở
hai nước Việt Nam và Trung Quốc, tìm ra nét đặc thù, hiểu được sự tương đồng
và khác biệt trong quá trình truyền giáo của đạo Tin Lành ở hai nước trên.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu của ngành tôn giáo
học, đó là phương pháp nghiên cứu lịch sử tôn giáo. Từ góc độ phát triển lịch sử
mà tôn giáo đã từng trải qua để nghiên cứu tôn giáo. Kết hợp với việc sử dụng
phương pháp nghiên cứu liên ngành, phương pháp phân tích văn bản lưu trữ và
phương pháp thống kê so sánh. Những phương pháp này cho tác giả nắm bắt
được thời gian du nhập, nhìn rõ được lịch sử truyền giáo và sự phát triển của đạo
Tin Lành tại Việt Nam và Trung Quốc; Phương pháp nghiên cứu khu vực được
sử dụng nhằm nhấn mạnh tính địa phương, tính đặc thù của khu vực nghiên cứu;
Phương pháp nghiên cứu so sánh giữa các tôn giáo. Phương pháp này chú ý sự
đa dạng về hình thức, chủng loại và sự khác nhau về không gian khu vực địa lí
13
của tôn giáo. Nó xuất phát từ so sánh các tôn giáo khác nhau để tìm bản chất và
ý nghĩa chung của tôn giáo, quy nạp các hình thức và đặc trưng điển hình của tôn
giáo. Phương pháp này được tác giả áp dụng để tìm ra điểm tương đồng và khác
biệt trong đặc điểm truyền giáo của đạo Tin Lành ở hai nước Việt Nam và Trung
Quốc.
Dựa trên các cơ sở lí thuyết và phương pháp nghiên cứu trên, tác giả sẽ
tiến hành so sánh hoạt động truyền giáo của đạo Tin Lành hai nước và hệ luận
của nó thông qua ba chiều kích gồm: môi trường chính trị, phương diện xã hội và
một phần chiều kích về văn hóa.
5. Đóng góp về mặt khoa học của luận án
- Đây là công trình khoa học đầu tiên phục dựng lại bức tranh toàn cảnh về
quá trình truyền giáo và phát triển đạo của đạo Tin Lành ở Việt Nam và Trung
Quốc giai đoạn từ khi du nhập đến khi hai nước bắt đầu thực hiện chính sách đổi
mới - cải cách mở cửa.
- Trên cơ sở làm rõ sự tương đồng và khác biệt trong hoạt động truyền
giáo của đạo Tin Lành ở hai nước, luận án rút ra bài học kinh nghiệm giúp cho
các nhà quản lí tôn giáo có cái nhìn lịch sử cụ thể để thực hiện một cách có hiệu
quả công tác quản lí nhà nước đối với đạo Tin Lành ở Việt Nam trong điều kiện
đất nước đổi mới và hội nhập quốc tế.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
- Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạt
động thực tiễn trong quá trình hoạch định chính sách tôn giáo và quản lí nhà
nước về tôn giáo nói chung và đối với đạo Tin Lành nói riêng.
- Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu
và giảng dạy về đạo Tin Lành tại các viện nghiên cứu, các học viện và các
trường đại học có bộ môn tôn giáo học.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần lời cam đoan, mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, danh mục các công trình của tác giả có liên quan đến luận án đã công
bố, luận án gồm 4 chương với 19 tiết:
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu
14
Chương 2: Hoạt động truyền giáo và quan hệ của đạo Tin Lành với đời
sống chính trị - xã hội ở Việt Nam từ khi du nhập đến khi đất nước bước vào thời
kì đổi mới (1911 - 1986)
Chương 3: Hoạt động truyền giáo và quan hệ của đạo Tin Lành với đời
sống chính trị - xã hội ở Trung Quốc từ khi du nhập đến khi đất nước bước vào
thời kì cải cách mở cửa (1807 -1979)
Chương 4: Những điểm tương đồng và khác biệt trong quá trình truyền
giáo của đạo Tin Lành ở Việt Nam và Trung Quốc
15
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến lịch sử truyền giáo
của đạo Tin Lành ở Việt Nam
Đạo Tin Lành là một tôn giáo lớn trên thế giới và có ảnh hưởng không nhỏ
tới đời sống văn hóa, xã hội của con người. Nghiên cứu về lịch sử truyền giáo
nói riêng và đạo Tin Lành nói chung đã được một số tác giả trong và ngoài nước
nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau. Tuy nhiên, ở Việt Nam, so với các tôn
giáo khác như Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo và Công giáo, đạo Tin Lành du
nhập muộn hơn rất nhiều, cho đến nay mới có lịch sử hơn 100 năm. Những công
trình nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về lịch sử truyền giáo của
đạo Tin Lành hiện nay còn rất khiêm tốn.
Về phía giới chức Tin Lành có các tác giả tiêu biểu như: Lê Hoàng phu,
Đỗ Hữu Nghiêm, Jean Baubérot. Ngoài ra, còn có một số tác phẩm là hồi kí của
các mục sư, giáo sĩ truyền giáo đạo Tin Lành tại Việt Nam như mục sư Lê Văn
Thái, Đoàn Văn Miêng, I. R. stebbins, Phạm Văn Năm, v.v…
Những tác phẩm liên quan đến lịch sử truyền giáo của đạo Tin Lành nói
chung gồm có:
Tác phẩm “Lịch sử truyền giáo” của tác giả Lê Hoàng Phu (bản in romeo
không có năm xuất bản, lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Tôn giáo) đã trình bày một
cách khá đầy đủ những sự kiện quan trọng trong công cuộc truyền giáo của đạo
Tin Lành suốt hai mươi thế kỷ kể từ khi chưa tách ra khỏi Công giáo và trình bày
một cách khái quát sự tăng trưởng của các Hội Thánh Tin Lành khắp thế giới.
Tác phẩm “Lịch sử đạo Tin Lành” của tác giả Jean Baubérot (Trần Sa
dịch, Nxb Thế giới, 2006) trình bày một cách khái quát quá trình ra đời và phát
triển của đạo Tin Lành. Theo ông, đạo Tin Lành được hình thành từ các cuộc cải
cách tôn giáo ở Châu Âu thế kỉ XVI với 3 đặc trưng cơ bản: “chỉ có Chúa Trời”,
“chỉ có Kinh Thánh”, “Chỉ có ân điển”. Những điều khẳng định mang tính thần
học nền tảng này của cuộc cải cách tôn giáo là những nhân tố thuyết giáo căn
bản luôn luôn thường trực trong suốt lịch sử của đạo Tin Lành. Tác giả cũng