Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Hoạch toán kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại công ty cổ phần xây lắp Trực Ninh “.
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
PHẦN I
LỜI NÓI ĐẦU
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, chuyên nghành kế
toán được nhiều nhà kinh tế quản lý kinh doanh và các chủ doanh nghiệp quan
niệm như một “Ngôn ngữ kinh doanh“ và coi đó là một “nghệ thuật“ để ghi chépphân loại, tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế tài chính trong quá hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp nhằm cung cấp những thông tin cần thiết cho việc ra
quyết định phù hợp của các đối tượng sử dụng thông tin. Xong dù quan niệm như
thế nào chăng nữa thì kê toán luôn là công cụ quản lý và có vai trò đặc biệt quan
trọng trong công tác quản lý vĩ mô của Nhà nước và quản lý vi mô của doanh
nghiệp.
Trong cơ chế thị trường như hiện nay thì mối quan tâm lớn nhất của chủ
doanh nghiệp là không chỉ làm thế nào giảm chi phí quá trình sản xuất đến mức
thấp nhất mà còn biết sử dụng lao động sao cho đúng, đủ nhất để tăng năng suất
lao động, đem lại lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp mình. Để giải quyết tốt vấn
đề này thì việc tổ chức thực hiện công tác kê toán tiền lương hoặc hoạch toán chi
phí nhân công không chỉ là cơ sở để xác định giá thành sản phẩm, là căn cứ để
xác định các khoản nộp ngân sách mà còn cần đảm bảo cho người lao động ổn
định mức sống và quyền lợi của họ.
Nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của công tác kế toán, do vậy đợt thực tập
giáo trình lần hai này được coi như là lần tiếp cận tìm hiểu công việc tổ chức thực
hiện kế toán trong các doanh nghiệp như thế nào. Là một sinh viên chuyên nghành
kế toán, em nhận thấy đây là khoảng thời gian rất cần thiết để chúng em có thể
học hỏi và trau dồi thêm những kinh nghiệm thực tế. Và qua đây em cũng muốn
hiểu biết sâu hơn về chuyên nghành của mình, chính vì thế trong lần thực tập này
em xin tham gia nghiên cứu chuyên đề “Hoạch toán kế toán tiền lương và các
khoản trích theo lương tại công ty cổ phần xây lắp Trực Ninh “.
1
PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Khi nghiên cứu về vấn đề tiền lương, trước tiên ta cần phải hiểu thực chất của
tiền lương là gì, nó có chức năng như thế nào. Để nghiên cứu chuyên đề này ta
cần xem xét các vấn đề sau
2.1 BẢN CHẤT TIỀN LƯƠNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
Trong mọi chế độ xã hội, việc sáng tạo ra của cải vật chất đều không tách rời
lao động. Lao động là hoạt động có mục đích của con người, diễn ra giữa con
người với giới tự nhiên, con người tác động vào các vật tự nhiên biến chúng thành
những vật phẩm đáp ứng nhu cầu sinh tồn của chính họ. Vì thế, lao động là điều
kiện không thể thiếu được của đời sống và là một phạm trù vĩnh viễn.
Tiền lương là khoản tiền công trả cho người lao động, nó là một phạm trù kinh
tế bởi nó phản ánh đúng giá trị sức lao động. Tiền lương phụ thuộc vào kết quả
của lao động và những mối quan hệ sản xuất mà trước hết là quan hệ về tư liệu
sản xuất. Tiền lương là khoản tiền công mà người sử dụng lao động trả cho người
lao động, đồng thời là những yếu tố chi phí sản xuất quan trọng cấu thành lên giá
thành sản phẩm. Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, là giá
cả của sức lao động, nhưng thực chất thì nhà tư bản trả công cho người lao động
thấp hơn giá trị sức lao động anh ta bỏ ra. Trong xã hội chủ nghĩa tiền lương
không phải là giá cả của sức lao động mà là một phần giá trị vật chất trong tổng
sản phẩm xã hội dùng để phân phối cho người lao động theo nguyên tắc “Làm
theo năng lực, hưởng theo lao động” tiền lương mang một ý nghĩa tích cực tạo ra
sự cân bằng trong phân phối thu nhập và ảnh hưởng đến quá trình tái sản xuất.
Ở nước ta trong thời kỳ bao cấp, một phần thu nhập quốc dân được tách ra
làm quỹ lương và phân phối theo kế hoạch tiền lương. Tiền lương cụ thể bao gồm:
Phần trả bằng tiền theo hệ thống thanh toán lương, bảng lương và phần trả bằng
hiện vật qua hệ thống tem phiếu. Theo cơ chế này, tiền lương không gắn chặt với
2
số lượng, chất lượng lao động, không đảm bảo một cuộc sống ổn định cho người
lao động, nên không tạo ra một động lực thúc đẩy sản xuất phát triển.
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, một trong những nội
dung đổi mới của cơ chế quản lý Nhà nước là không bao cấp tiền lương cho các xí
nghiệp quốc doanh, phạm trù tiền lương được thể hiện cụ thể trong từng thành
phần và khu vực kinh tế. Với thành phần kinh tế nhà nước và khu vực hành chính
sự nghiệp, tiền lương là số tiền mà các doanh nghiệp quốc doanh, các cơ quan tổ
chức của Nhà nước trả cho người lao động theo cơ chế và chính sách thể hiện ở
hệ thống thanh toán lương, bảng lương do Nhà nước quy định. Còn với thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh, tiền lương chịu sự tác động, chi phối rất lớn của
thị trường sức lao động, dù vẫn nằm trong khuôn khổ pháp luật và theo những
chính sách của chính phủ nhưng tiền lương thông qua giao dịch trực tiếp giữa chủ
và thợ bằng những “mặc cả” cụ thể giữa một bên làm thuê và một bên đi thuê.
Những hợp đồng lao động này có tác động trực tiếp đến hình thức trả công.
Đứng trên phạm vi xã hội, tiền lương được xem xét và đặt trong quan hệ phân
phối thu nhập, quan hệ sản xuất tiêu dùng, quan hệ trao đổi, do vậy các chính
sách về tiền lương và thu nhập luôn là chính sách trọng tâm của mỗi quốc gia.
2.1.1 Chức năng của tiền lương.
Chức năng là thước đo giá trị.
Tiền lương là khoản tiền công trả cho người lao động tương ứng với số lượng
và chất lượng lao động. Là biểu hiện bằng tiền của hao phí lao động sống cần thiết
mà doanh nghiệp trả cho người lao động theo thời gian, khối lượng công việc đã
cống hiến cho doanh nghiệp. Khi trả lương cho người lao động ngang bằng với giá
trị sức lao động mà họ đã bỏ ra trong quá trình thực hiện công việc thì xã hội có
thể xác định chính xác hao phí sức lao động của toàn thể cộng đồng thông qua
quỹ lương cho toàn bộ người lao động. Điều này có ý nghĩa quan trọng để Nhà
nước hoạch định được về chính sách, chiến lược lao động tiền lương.
Chức năng tái sản xuất sức lao động.
3