Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Hình tượng con người cô đơn trong sáng tác của nam cao
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRẦN THỊ THU NGUYỆT
HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI CÔ ĐƠN
TRONG SÁNG TÁC CỦA NAM CAO
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.34
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Đà Nẵng - Năm 2012
2
Công trình được hoàn thành tại
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phan Ngọc Thu
Phản biện 1 : TS. Bùi Thanh Truyền
Phản biện 2 : TS. Hoàng Sỹ Nguyên
Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm
Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ Khoa học Xã hội và
Nhân văn họp tại Đại học Đà Nẵng vào ngày 01
tháng 12 năm 2012
Có thể tìm luận văn tại:
- Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà
Nẵng
3
- Thư viện trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà
Nẵng
4
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
- Nam Cao (1917-1951) là nhà văn xuất hiện vào thời kì
cuối (1940 - 1945) của trào lưu văn học hiện thực nước ta giai
đoạn 1930-1945. Đời sống và đời viết của ông tuy ngắn ngủi
nhưng đã để lại một sự nghiệp giàu giá trị tư tưởng và nghệ thuật,
vẫn có sức lôi cuốn giới nghiên cứu và nhiều thế hệ bạn đọc. Ồng
xứng đáng là một trong những nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện
đại Việt Nam. Bởi vậy, cho dù đã có nhiều đề tài luận văn, luận án
nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Nam Cao, nhưng vẫn còn
rất nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu.
- Thế giới nghệ thuật trong sáng tác Nam Cao có rất nhiều
bình diện cần được tiếp cận và tìm hiểu. Nhìn từ phương diện đề
tài và nhân vật hầu hết các công trình đều cho rằng, sáng tác của
Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám năm đã tập trung vào hai
mảng chủ yếu: Viết về cuộc sống cùng cực của những người cố
nông nghèo khổ, lấy chất liệu ngay từ làng quê ông và những
người trí thức nghèo phải sống trong bi kịch “đời thừa”, “mòn ra”,
“rỉ lên”, “mốc đi” từ bản thân cuộc đời chính ông và bạn bè cùng
cảnh ngộ. Tuy nhiên, nếu nhìn một cách khái quát hơn, nhưng
cũng đi sâu hơn vào bản chất của hình tượng nghệ thuật trong mối
liên hệ với quan niệm của một nhà văn luôn luôn khát vọng “vượt
lên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn” để làm nên những tác phẩm
“chung cho cả loài người”. Từ góc nhìn ấy, qua những tác phẩm
kiệt xuất của Nam Cao, người đọc có thể thấy thêm một hình
5
tượng nổi bật rất giàu ý nghĩa nhân văn: Hình tượng nhân vật con
người cô đơn trong sáng tác của Nam Cao.
- Mặt khác, Nam Cao đã từ lâu là một tác giả được đưa
vào chương trình dạy và học môn Ngữ văn ở trường phổ thông
(“Lão Hạc” ở Trung học Cơ sở; “Chí Phèo”, “Đời thừa” ở Trung
học Phổ thông). Vì vậy, tìm hiểu đề tài này, chúng tôi có dịp được
phát hiện thêm những nét độc đáo về giá trị tư tưởng và nghệ thuật
của tác phẩm Nam Cao, qua đó có thêm những kiến thức bổ ích
cho việc giảng dạy tác gia Nam Cao trong nhà trường.
2. Lịch sử vấn đề
Nam Cao là đại biểu xuất sắc của dòng văn học hiện thực
phê phán Việt Nam. Vì vậy, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu,
nhiều cuộc hội thảo, nhiều luận văn, luận án nhận xét đánh giá, tìm
tòi phát hiện những giá trị văn chương trong sáng tác của ông.
Hầu hết bài viết về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của
Nam Cao đều tập trung ở những công trình lớn:
- Bài giới thiệu dài gần 50 trang của GS. Hà Minh Đức
trong Nam Cao - Tác phẩm, tập I, tập II, Nxb Văn học, 1976.
- Viện Văn học với công trình tập hợp của nhiều tác giả:
Nghĩ tiếp về Nam Cao, Nxb Hội Nhà văn, 1992.
- GS. Phong Lê với công trình Nam Cao - Phác thảo sự
nghiệp và chân dung, Nxb Khoa học Xã hội, 1997.
- GS. Hà Minh Đức với công trình Nam Cao - Đời văn và
tác phẩm, Nxb Văn học, 1998.
6
- GS. Nguyễn Đăng Mạnh cũng đã có những bài viết sâu
sắc về Nam Cao trong Nhà văn Việt Nam hiện đại - Chân dung và
phong cách, Nxb Trẻ, 2000.
- Nhiều tác giả, Nam Cao - Con người và tác phẩm, Nxb
Hội Nhà văn, 2000.
- Bích Thu đã `tập hợp và tuyển chọn các bài viết về Nam
Cao trong Nam Cao - Về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, tái
bản, 2007.
Nhìn chung các bài viết trong các công trình kể trên có thể
chia làm hai loại:
Loại nghiên cứu đi sâu tìm hiểu về sự nghiệp và giá trị tư
tưởng, nghệ thuật của sáng tác Nam Cao.
Loại đi sâu tiếp cận phân tích thế giới nhân vật trong sáng
tác của Nam Cao.
Tiếp thu và kế thừa ý kiến của người đi trước, dưới đây
chúng tôi chỉ lược lại một số bài viết có liên quan đến đề tài.
- GS Phong Lê trong bài “Sự sống và sức sống trong văn
Nam Cao” mở đầu cho công trình “Nghĩ tiếp về Nam Cao” nhận
xét: “Toàn bộ thế giới truyện của Nam Cao là một nỗi đau lớn vì
những nỗi khổ - hiện ra trong rất nhiều dạng của con người; cũng
đồng thời là một niềm khắc khoải lớn, vì nhu cầu phát triển của
con người.
- GS Nguyễn Văn Hạnh, “Nam Cao và khát vọng về một
cuộc sống lương thiện, xứng đáng” lại viết: “Nam Cao trân trọng
mọi biểu hiện của sự sống, trăn trở, đau buồn, nhưng không bao
7
giờ mất hi vọng. Đọc Nam Cao, con người muốn sống chu đáo
hơn, nhân ái hơn”
- Vũ Dương Quỹ trong “Những nhân vật, những cuộc đời
và nẻo đường đi tìm nhân cách” in chung trong cuốn Nam Cao về
tác gia và tác phẩm nhận định: trong sáng tác của Nam Cao, các
kiểu nhân vật có ba con đường đi tìm nhân cách.
- Cũng trong cuốn Nam Cao về tác gia và tác phẩm, Quế
Hương khai thác ở góc độ “Vẻ đẹp con người.
- Nguyễn Văn Trung với“Con người bị từ chối quyền làm
người trong truyện Chí Phèo của Nam Cao”, in trong “Nam Cao
về tác gia và tác phẩm”, cũng đề cập đến yếu tố con người: “Con
người sinh ra là để làm người, nghĩa là để được sống, bằng những
dự định, ước muốn, tình cảm, xác định bản chất của người khác
với con vật. Nhưng đôi khi nó bị từ chối cái quyền sống chính
đáng đó. Nó là người nhưng không được làm người”.
- Đinh Trí Dũng viết “Bi kịch tự ý thức, nét độc đáo trong
cảm hứng nhân đạo của Nam Cao” in trong cuốn “Nghĩ tiếp về
Nam Cao
- Hà Minh Đức với “Nam Cao và đôi nét sáng tạo nghệ
thuật tâm lí”, Tạp chí văn học, số 6 năm 1982 viết rằng: “Nhân vật
của Nam cao hay ân hận. Họ không rơi vào những lỗi lầm lớn mà
chỉ rơi vào những khuyết điểm đáng trách, đáng thương”…
Nhìn chung, các bài viết trên đều có đề cập đến phương
diện con người và nhân cách con người trong sáng tác của Nam
Cao nhưng về vấn đề con người cô đơn thì hầu như chưa ai đề cập
8
một cách tỉ mỉ và hệ thống. Chúng tôi chọn đề tài này nhằm góp
một tiếng nói nhỏ của mình về phương diện con người trong sáng
tác của Nam Cao.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Hình tượng nhân vật con người cô đơn trong sáng tác của
Nam Cao từ quan niệm nghệ thuật, ý nghĩa tư tưởng đến phương
thức nghệ thuật thể hiện.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Qua một số truyện ngắn nổi bật: Dì Hảo, Chí Phèo, Lão
Hạc, Giăng sáng, Đời thừa…
- Qua tiểu thuyết Sống mòn.
4. Mục đích nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu một cách tỉ mỉ, có hệ thống về hình
tượng con người cô đơn trong các tác phẩm để từ đó thấy được
tính hiện đại của chủ nghĩa nhân văn và phong cách nghệ thuật độc
đáo của Nam Cao.
- Qua việc nghiên cứu này, chúng tôi muốn góp thêm tài
liệu tham khảo dạy học văn học hiện đại Việt Nam trong chương
trình Đại học, Trung học Phổ thông và Trung học cơ sở.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi vận dụng nhiều
phương pháp nghiên cứu văn học để giải quyết yêu cầu của luận
văn đề ra. Tuy nhiên, các phương pháp chủ yếu sau được sử dụng
nhiều nhất trong quá trình thực hiện:
9
- Phương pháp tiếp cận - hệ thống
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp giải mã từ góc độ thi pháp học
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm 3 chương:
- Chương 1: Về cuộc đời, con người và sự nghiệp sáng tác của
Nam Cao
- Chương 2: Các dạng thức hình tượng con người cô đơn trong
sáng tác của Nam Cao
- Chương 3: Nghệ thuật thể hiện hình tượng con người cô đơn
trong sáng tác của Nam Cao
Chương 1:
CUỘC ĐỜI, CON NGƯỜI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA
NAM CAO
1.1. Vài nét về cuộc đời và con người
1.1.1. Bi kịch “vỡ mộng”
Xuất thân trong một gia đình trung nông, Nam Cao là
người có điều kiện học hết bậc thành chung. Thời đại mà Nam Cao
sống tuy đất nước còn nằm trong vòng nô lệ, nhưng với vốn học
vấn Tây học, ý thức về cá nhân cá thể đã được thức tỉnh, một lớp
người cùng thế hệ đã xuất hiện và khẳng định mình, Nam Cao đã
từng mơ ước, khát vọng đi xa để làm nên nghiệp lớn, nhưng rồi do
nhiều hoàn cảnh, ước vọng không thành, lại trở về quê với bi kịch
10
“vỡ mộng” - bi kịch của một người “khát bay mà không có chân
trời”. Dạy học tư, làm văn, làm báo để kiếm sống trong nỗi đau tự
thấy “đời thừa” - là cuộc đời của Nam Cao và cũng là một mảng
thế giới nhân vật giàu chất tự thuật trong sáng tác của nhà văn.
1.1.2. “Cái mặt không chơi được”
Trong nhiều truyện ngắn của mình, không ít lần Nam Cao
đã đưa ra những lời tự bạch: “Chẳng may trời phú cho mình cái
mặt không chơi được ấy thì mình phải chịu”. Đó chính là cái mặt
không chơi được, là cái tôi đáng ghét của một con người có bề
ngoài lạnh lùng, ít nói - một đặc điểm nổi bật của con người Nam
Cao. Qua những lời tự thuật mà nhà văn mượn lời nhân vật trong
tác phẩm để phát biểu, để nói thay mình, người đọc phần nào hiểu
được con người Nam Cao: Bề ngoài khó gần, “không chơi được”
nhưng trong ông lại là con người chan chứa niềm tin yêu đối với
cuộc sống, một trái tim nặng nợ với đời, với quê hương và đặc biệt
là với những người nghèo khổ bị áp bức, khinh miệt trong xã hội
cũ.
1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nam Cao
1.2.1. Hành trình sáng tác
Trước Cách mạng tháng Tám, Nam Cao là nhà văn sáng
tác theo khuynh hướng hiện thực. Tác phẩm của ông viết ra đều
thông qua quá trình thai nghén đầy xúc cảm, qua sự suy nghĩ chín
chắn về sự thể nghiệm ý thức chính trị xã hội của nhà văn trong
đời sống thực tế, tác phẩm của ông thời kì này là lưỡi dao sắc nhọn
rạch vào cơ thể ung nhọt của xã hội cũ, phơi bày thực trạng xấu xa
11
của một chế độ sắp đến ngày sụp đổ. Căm thù chế độ thống trị bao
nhiêu, Nam Cao lại càng cảm thông và yêu thương những nạn
nhân của chế độ đó bấy nhiêu. Trước Cách mạng, văn ông tập
trung vào hai đề tài chính: Cuộc sống người nông dân nghèo và
cuộc sống của người trí thức nghèo.
Ở đề tài người nông dân, Nam Cao thường quan tâm đến
hạng cố cùng, những số phận hẩm hiu, bị ức hiếp nhiều nhất. Họ
càng hiền lành nhẫn nhục thì càng bị chà đạp đến phũ phàng. Ông
đặc biệt đi sâu vào những trường hợp con người bị lăng nhục một
cách độc ác, bất công, mà xét đến cùng chẳng qua chỉ vì họ nghèo
đói, khốn khổ.
Ở đề tài về người trí thức tiểu tư sản, Nam Cao đã miêu tả
hết sức chân thành cảnh nghèo khổ, dở sống dở chết của những
nhà văn nghèo, những giáo khổ trường tư… Nhà văn đặc biệt đi
sâu vào bi kịch tâm hồn họ, qua đó đặt vấn đề về ý nghĩa xã hội to
lớn: Đó là những tấn bi kịch dai dẳng, thầm lặng mà đau đớn của
những người có ý thức sâu sắc về giá trị sống và nhân phẩm nhưng
lại bị gánh nặng cơm áo và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt làm cho
“chết mòn”, phải sống cuộc sống “đời thừa”.
Sau Cách mạng, tác giả đón chào trang mới của lịch sử
bằng niềm hân hoan của người cán bộ đã giác ngộ được lí tưởng.
Cho nên, ông đã nhạy cảm và chuyển mình rất nhanh theo những
bước đi của thời đại mới. Trước đó, chính ông đã thấm thía sự tủi
nhục của người dân mất nước, đã sống một cuộc đời “mốc lên, gỉ
đi, mục ra”, cuộc đời quẩn quanh vô vị, đã từng chứng kiến biết
12
bao đau thương uất hận trong cuộc sống… nên khi Cách mạng tràn
về, Nam Cao không ngần ngại lao mình vào mọi công tác chung
của kháng chiến. Ông tự nguyện làm người cán bộ tuyền tryền vô
danh và có ý thức tự rèn luyện, cải tạo mình trong thực tế đấu
tranh của quần chúng nhân dân. Truyện ngắn “Đôi mắt” (1948) là
một tác phẩm thành công nhất, được xem là “mốc nhận đường”
của chính tác giả, là tác phẩm xuất sắc của văn nghệ kháng chiến
chặng đầu, đồng thời cũng là một trong những viên gạch đầu tiên
của văn học thời đại mới.
1.2.2. Quan niệm nghệ thuật
1.2.2.1. Quan niệm nghệ thuật về con người
Nam Cao là nhà văn của chủ nghĩa hiện thực tâm lí bậc
thầy và luôn hứng thú khám phá “con người trong con người”. Đối
với ông, từ những trang sách đi ra là những con người phức tạp đa
chiều, không có con người hoàn toàn thánh thiện cũng không có
con người hoàn toàn xấu xa, con người trong quan niệm của Nam
Cao là con người hiện diện với tất cả các mặt đối lập: Vừa đẹp đẽ
vừa xấu xa, vừa cao thượng vừa tầm thường nhỏ nhen, vừa nhân
đạo vừa độc ác, vừa đáng khinh vừa đáng trọng. Trong hệ thống
quan niệm nghệ thuật về con người thì con người cô đơn - theo
ông, vẫn là một ẩn số phức tạp, thú vị nhất mà nhà văn luôn kiếm
tìm.
1.2.2.2. Quan niệm về tác phẩm văn chương
Theo tác giả, đã là một tác phẩm văn chương có giá trị thật
sự khi và chỉ khi tác phẩm đó “vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và
13
giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải
chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn
khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… nó làm
cho người gần người hơn” (Đời thừa)
Khi bày tỏ quan điểm về giá trị của một tác phẩm văn học,
Nam Cao đã bày tỏ mơ ước viết được một tác phẩm để “Người gần
người hơn”. Đó cũng chính là khát khao muôn đời của một nghệ
sỹ có trái tim nhân hậu nồng nàn suy tư về những số kiếp con
người như Nam Cao.
1.2.2.3. Quan niệm về vai trò, trách nhiệm của nhà văn
Một nhà văn thật sự, trước tiên - phải là một con người
“sống đẹp”, tức là không chỉ sống ích kỉ cho bản thân mình mà
phải nghĩ tới người khác, sống cho người khác. Khi đó, anh mới
nuôi được những lí tưởng đẹp, những hoài bão lớn lao.
Thứ hai, anh không được dẫm lên những lối mòn cho sẵn
mà anh phải là người biết “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng
tạo những gì chưa có”. Cạn nguồn sáng tạo, văn chương chỉ còn là
thứ sản phẩm “rất nhẹ”, “rất nông”, “vô vị”, “nhạt phèo” - như suy
nghĩ của nhân vật nhà văn Hộ trong truyện ngắn “Đời thừa
Thứ ba, đã là một nhà văn - theo Nam Cao thì người đó
phải có lương tâm, trách nhiệm với nghề, phải không ngừng nỗ
lực, không ngừng khao khát viết những tác phẩm thay mọi người
nói lên tiếng nói chung, để tác phẩm của mình bay cao, bay xa
mang tầm vóc nhân loại.
14
Cuối cùng, cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ông
nói về trách nhiệm của nhà văn và văn chương trước vận mệnh
của dân tộc, tức là tham gia vào công tác tuyên truyền, động viên
toàn dân kháng chiến cứu nước. Ý thức ấy được Nam Cao nâng
lên thành quan điểm lý luận có tính chất định hướng hoạt động
sáng tạo của mình.
Chương 2
CÁC DẠNG THỨC HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI CÔ ĐƠN
TRONG SÁNG TÁC CỦA NAM CAO
2.1. Khái niệm cô đơn và con người cô đơn
2.1.1. Khái niệm cô đơn
Theo Từ điển Tiếng Việt: “cô đơn” được hiểu là “chỉ có
một mình, không biết nương tựa vào đâu” [Hoàng Phê chủ biên,
Nxb Đà Nẵng, 1997, tr 196].
Theo Henri Benac trong Dẫn giải ý tưởng văn chương:
“Thuật ngữ cô đơn chỉ: Hoặc một nơi hiu quạnh; Hoặc những tác
động của nơi ấy, nghĩa là trạng thái của người sống một mình hay
người cảm thấy duy chỉ có một mình với chính mình trong một
khung cảnh nào đó (khung cảnh thiên nhiên, căn buồng, thành phố,
xã hội của những con người)… Với những đặc trưng: Cô đơn thể
xác và cô đơn về tinh thần”… [Nxb Giáo dục, tr 797 - 798].
Như vậy, có hai dạng thức phổ biến của sự cô đơn: Tự cô
đơn và bị cô đơn, tự cô đơn là một lựa chọn bản lĩnh và quyết liệt,
còn bị cô đơn lại là một hình phạt. Cả hai đều nhuốm sắc thái bi
kịch.
15
2.1.2. Khái niệm con người cô đơn:
Theo quan niệm truyền thống, khi con người chỉ có một
mình, tách biệt với đời sống cộng đồng, không có ai để san sẻ và
thấu hiểu…Đó là khi con người cô đơn. Với ý nghĩa như vậy, cô
đơn là khái niệm để chỉ một trạng thái sống, một tâm trạng gắn với
số phận con người.
Trong quan điểm hiện đại, người ta thường nhìn nhận con
người cô đơn từ góc độ triết học: Mỗi con người là một thực thể tự
nhiên, một tiểu vũ trụ riêng tư không lặp lại, chính cái riêng tư ấy
tạo nên con người cô đơn; Đồng thời cũng nhìn nhận con người cô
đơn mang ý nghĩa nhân bản: Con người là một thực thể của xã hội,
của cộng đồng. Nhìn từ hai góc độ trên để thấy rằng, cô đơn không
chỉ là nỗi buồn, mà có khi còn là vẻ đẹp buồn, để con người trở về
với chính mình, tự hiểu mình hơn, và cũng thấy rõ sự cần thiết
phải hòa mình vào cộng đồng.
2.2. Những kiểu con người cô đơn trong sáng tác của
Nam Cao
2.2.1. Kiểu con người cô đơn vì bị cô lập trong đời sống
cộng đồng
Ở kiểu con người cô đơn vì bị cô lập trong đời sống cộng
đồng, chúng tôi xét thấy rằng đó là kiểu cô đơn của những nhân
vật trong mảng sáng tác về đề tài người nông dân. Nổi bật nhất và
cũng thành công nhất trong mảng đề tài này là tác phẩm “Chí
Phèo”. Qua tác phẩm này, chứng kiến những nỗi cô đơn chồng
chất của nhân vật Chí từ khi sinh ra đến lúc chết đi, Nam Cao đã