Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Hiệu quả hoạt động kinh doanh tại ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh: Luận văn thạc sĩ kinh tế / Lê Thanh Nhân
PREMIUM
Số trang
103
Kích thước
1.4 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
714

Hiệu quả hoạt động kinh doanh tại ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh: Luận văn thạc sĩ kinh tế / Lê Thanh Nhân

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

i

LỜI CAM ĐOAN

Tác giả luận văn có lời cam đoan danh dự về công trình khoa học này của mình, cụ thể:

Tôi tên là : Lê Thanh Nhân

Sinh ngày: 27 tháng 10 năm 1986, Tại: Bến Tre

Quê quán: Bến Tre

Hiện công tác tại: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phát triển TP.HCM

Là học viên cao học khóa XI, lớp 11B1, của Trường Đại học Ngân hàng TP.Hồ

Chí Minh. Mã số học viên: 20111090108.

Cam đoan đề tài: “Hiệu quả hoạt động kinh doanh tại Ngân hàng Thương mại Cổ

phần Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh”.

Chuyên ngành: Kinh tế tài chính, ngân hàng

Mã số chuyên ngành: 60.31.12

Người hướng d n khoa học: T . Nguy n ăn Ph c.

Luận văn được thực hiện tại Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM.

Đề tài này là công trình nghiên cứu riêng của tôi, các kết quả nghiên cứu có tính

độc lập riêng, không sao chép bất kỳ tài liệu nào và chưa được công bố toàn bộ nội

dung này bất kỳ ở đâu; các số liệu, các nguồn trích d n trong luận văn được ch thích

nguồn gốc rõ ràng, minh bạch.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan danh dự của tôi.

TP. HCM, ngày 22 tháng 04 năm 2013

Tác giả

LÊ THANH NHÂN

1

CHƯƠNG 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH

CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI

1.1.1. Lý luận về ngân hàng thương mại

1.1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại

Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính quan trọng đối với nền kinh tế.

Các định nghĩa về ngân hàng dựa trên chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà nó thực

hiện đối với nền kinh tế. Tùy theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân

hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã [3].

Khi đề cập đến khái niệm Ngân hàng thương mại, có rất nhiều phát biểu khác nhau tùy

vào mỗi quốc gia. Chẳng hạn:

- Ở Ấn Độ: NHTM là cơ sở chuyên nhận các khoản ký thác để cho vay hay

tài trợ đầu tư. [3]

- Ở Pháp: NHTM là những doanh nghiệp và cơ sở nào thường xuyên nhận

của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho

chính họ vào nghiệp vụ tín dụng, chứng khoán hay dịch vụ tài chính. [3]

- Ở Mỹ: NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ

tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính. [3]

- Peter S.Rose định nghĩa: Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp

một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và

dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ

chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. [8]

- Ở Việt Nam: Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 được Quốc hội

thông qua ngày 16/06/2010 quy định: “Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng

được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo

quy định nhằm mục tiêu lợi nhuận”. Trong đó, “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín

dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng”, Luật này còn định nghĩa:

2

“Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động

ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ

chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân” và “Hoạt động ngân hàng là việc kinh

doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ: nhận tiền gửi, cấp tín

dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản”. [15]

Như vậy, có thể khái quát định nghĩa về NHTM như sau: NHTM là một loại

hình doanh nghiệp được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng vì mục tiêu lợi

nhuận.

1.1.1.2. Chức năng của ngân hàng thương mại

NHTM có ba chức năng, đó là: chức năng thủ quỹ, chức năng trung gian thanh

toán và chức năng trung gian tín dụng.

- Chức năng thủ quỹ

Thực hiện chức năng thủ quỹ, NHTM nhận tiền gửi, giữ tiền, bảo quản tiền,

thực hiện yêu cầu rút tiền, chi tiền của khách hàng là các chủ thể trong nền kinh tế.

Chức năng thủ quỹ có tác dụng khác nhau đối với từng chủ thể khác nhau:

+ Đối với khách hàng, có tác dụng giúp cho khách hàng gửi tiền không những

đảm bảo an toàn cho đồng vốn tạm thời nhàn rỗi của mình mà còn có tác dụng sinh lời

cho những đồng vốn đó, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.

+ Đối với ngân hàng, thực hiện chức năng thủ quỹ là cơ sở để ngân hàng thực

hiện chức năng thanh toán, đồng thời tạo nguồn vốn để ngân hàng thực hiện chức năng

trung gian tín dụng.

+ Đối với nền kinh tế, thông qua chức năng thủ quỹ của các ngân hàng thương

mại, từ đó tập trung được nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế để phục vụ

phát triển kinh tế, tiếp tục đầu tư sản xuất tạo ra nhiều của cải hơn cho xã hội.

- Chức năng trung gian thanh toán

Chức năng này là sự kế thừa và phát triển chức năng thủ quỹ của NHTM, tức là

thay mặt khách hàng, ngân hàng trích tiền trong tài khoản trả cho người thụ hưởng

hoặc nhận tiền vào tài khoản theo lệnh của chủ tài khoản. Công việc của người thủ quỹ

chính là ở chỗ làm trung gian thanh toán.

3

Chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa lớn đối với nền kinh tế vì đã tạo

điều kiện thuận lợi giúp khách hàng thanh toán nhanh chóng, hiệu quả và an toàn, từ

đó đẩy nhanh quá trình lưu thông hàng hóa, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Khi khách

hàng gửi tiền vào ngân hàng, họ sẽ được đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và

thực hiện thu chi một cách nhanh chóng, tiện lợi, nhất là đối với các khoản thanh toán

có giá trị lớn, ở mọi địa phương, mà nếu khách hàng tự thanh toán sẽ rất tốn kém (như

những chi phí lưu thông tiền mặt: chi phí cho việc đúc tiền, in tiền, bảo quản tiền, vận

chuyển tiền,…), khó khăn và không an toàn.

Chức năng trung gian thanh toán là tiền đề và cơ sở để các NHTM tạo ra tiền

ghi sổ, góp phần tăng quy mô tín dụng cho nền kinh tế, vừa tiết kiệm khối lượng tiền

mặt lưu thông dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu thông tiền tệ, vừa tạo điều kiện thuận lợi

cho nhiều dịch vụ ngân hàng khác phát triển. Mặt khác, chức năng trung gian thanh

toán giúp tăng uy tín của ngân hàng lên thông qua các dịch vụ được khuyếch trương.

- Chức năng trung gian tín dụng

Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của NHTM, có ý nghĩa đặc biệt

quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Ngân hàng huy động và tập

trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để hình

thành nguồn vốn cho vay, đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, đầu tư và

tiêu dùng của các chủ thể kinh tế. Quan hệ tín dụng trực tiếp giữa chủ thể thừa vốn và

chủ thể có nhu cầu vay vốn gặp nhiều hạn chế về không gian, thời gian, khả năng thẩm

định khách hàng, trình độ quản lý,… chính chức năng trung gian tín dụng của NHTM

đã góp phần khắc phục hạn chế đó.

Chức năng trung gian tín dụng có ý nghĩa lớn đối với nền kinh tế, giúp điều hòa

vốn từ nơi tạm thời dư thừa đến nơi tạm thời thiếu hụt, làm giảm tối đa lượng vốn

nhàn rỗi trong nền kinh tế, góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Đối với NHTM,

chức năng này là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển, tạo nguồn vốn để ngân hàng kinh

doanh và gia tăng lợi nhuận, đồng thời là cơ sở để NHTM tạo bút tệ. Đối với khách

hàng gửi tiền, vừa giúp cho nguồn vốn nhàn rỗi tăng khả năng sinh lợi vừa đảm bảo an

toàn vốn. Đối với khách hàng vay vốn, kịp thời thỏa mãn được nhu cầu vốn tạm thời

4

thiết hụt trong sản xuất, kinh doanh, đầu tư và tiêu dùng vừa tiết kiệm chi phí, tiết

kiệm thời gian tìm kiếm nguồn vốn tiện lợi, an toàn và hợp pháp.

1.1.2. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại

NHTM hoạt động kinh doanh chủ yếu trong các lĩnh vực: hoạt động huy động

vốn, hoạt động cấp tín dụng, hoạt động dịch vụ thanh toán, hoạt động ngân quỹ và các

hoạt động kinh doanh khác.

- Hoạt động huy động vốn

Huy động vốn là một trong những nghiệp vụ chủ yếu của NHTM nhằm giải

quyết "đầu vào", tức là hình thành nguồn vốn để ngân hàng kinh doanh. NHTM huy

động vốn dưới các hình thức sau:

 Nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình

thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.

 Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động

vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước.

 Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và các tổ chức

tín dụng tại nước ngoài.

 Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước.

 Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.

- Hoạt động cấp tín dụng

NHTM cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức: cho vay, chiết khấu

giấy tờ có giá, bảo lãnh, cho thuê tài chính, bao thanh toán và các hình thức khác. Trong

đó, cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất.

- Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ

Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ của NHTM bao gồm các hoạt động:

cung cấp các phương tiện thanh toán, thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước và

quốc tế cho khách hàng, thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ,… Các dịch vụ thanh toán

trong nước và quốc tế thông qua ngân hàng ngày nay trở thành nhu cầu không thể thiếu

của các chủ thể trong nền kinh tế, giúp cho hàng hóa được luân chuyển nhanh hơn, thúc

đẩy các giao dịch ngoại thương phát triển.

5

- Hoạt động kinh doanh ngoại hối

Hoạt động kinh doanh này của NHTM rất phát triển trong giai đoạn hiện nay

nhằm đáp ứng nhu cầu trao đổi, mua bán trong hoạt động ngoại thương. Ngân hàng thực

hiện mua, bán đồng tiền này để lấy đồng tiền khác nhằm mục đích thu lợi nhuận. Ngân

hàng mua bán ngoại tệ theo các dạng hợp đồng: giao ngay (spot), kỳ hạn (forward),

tương lai (future), quyền chọn (option).

- Hoạt động kinh doanh khác

Ngoài các hoạt động truyền thống như huy động vốn, cấp tín dụng, dịch vụ

thanh toán và ngân quỹ, kinh doanh ngoại hối, NHTM còn thực hiện các hoạt động

kinh doanh khác như góp vốn kinh doanh và mua cổ phần, tham gia thị trường tiền tệ,

ủy thác và nhận ủy thác, cung ứng dịch vụ bảo hiểm, tư vấn tài chính, bảo quản vật

quý giá,…

1.2. LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG

MẠI

1.2.1. Khái niệm về hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại

1.2.1.1. Khái niệm hiệu quả kinh doanh

Hiện nay còn nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm “hiệu quả kinh doanh”,

nhưng trong cơ chế kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp đều

có mục tiêu bao trùm, lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận.

Xét trên khía cạnh hiệu quả kinh tế, có ý kiến cho rằng: "Hiệu quả sản xuất kinh

doanh diễn ra khi xã hội không tăng sản lượng một loại hàng hóa mà cũng không cắt giảm

sản lượng của một loại hàng hóa khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên giới hạn khả

năng sản xuất của nó"[23]. Thực chất, quan điểm này đã đề cập đến khía cạnh phân bổ có

hiệu quả các nguồn lực của nền sản xuất xã hội. Trên phương diện này, phân bổ các

nguồn lực kinh tế sao cho đạt được việc sử dụng mọi nguồn lực trên đường giới hạn khả

năng sản xuất sẽ làm cho nền kinh tế có hiệu quả và xét trên phương diện lý thuyết thì đây

là mức hiệu quả cao nhất mà mỗi nền kinh tế có thể đạt được. Xét về mặt lý thuyết, hiệu

quả kinh doanh chỉ có thể đạt được trên đường giới hạn năng lực sản xuất của doanh

nghiệp. Tuy nhiên, để đạt được mức hiệu quả kinh doanh này sẽ cần rất nhiều điều kiện,

6

trong đó đòi hỏi phải dự báo và quyết định đầu tư sản xuất theo qui mô phù hợp với cầu thị

trường. Thế nhưng không phải lúc nào điều này cũng trở thành hiện thực.

Nhiều nhà quản trị học quan niệm: “Hiệu quả kinh doanh được xác định bởi tỉ

số giữa kết quả đạt được và chi phí phải bỏ ra để đạt được kết quả đó”[23]. Hoặc có ý

kiến cho rằng: "Tính hiệu quả được xác định bằng cách lấy kết quả tính theo đơn vị giá

trị chia cho chi phí kinh doanh"[23].

Từ các quan điểm trên, luận văn rút ra:

Có thể hiểu một cách khái quát hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh trình

độ lợi dụng các nguồn lực (nhân lực, tài lực, vật lực) để đạt được mục tiêu xác định.

Trình độ lợi dụng các nguồn lực chỉ có thể được đánh giá trong mối quan hệ với kết

quả tạo ra, để xem xét với mỗi sự hao phí nguồn lực xác định có thể tạo ra kết quả ở

mức độ nào. Vì vậy, có thể mô tả hiệu quả kinh doanh bằng công thức chung nhất như

sau:

H = K/E

Trong đó:

+ H: Hiệu quả kinh doanh

+ K: Kết quả đạt được

+ E: Hao phí nguồn lực cần thiết để tạo ra kết quả đó

Hiệu quả kinh doanh phản ánh mặt hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh

doanh, trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất trong sự vận động không ngừng của quá

trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, không phụ thuộc vào quy mô và tốc độ

biến động của từng nhân tố.

1.2.1.2. Khái niệm hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại

Ngân hàng thương mại cũng là một loại hình doanh nghiệp, trên góc độ này

người ta có thể nghiên cứu hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp hoạt động kinh

doanh trong lĩnh vực tiền tệ.

7

Cơ chế hoạt động của NHTM liên quan đến việc đánh giá hiệu quả bằng hệ

thống các chỉ tiêu định tính và định lượng về hoạt động kinh doanh của NHTM, vì vậy

cần nhất quán: Thứ nhất, hiệu quả kinh doanh của NHTM cao hay thấp thể hiện ở việc sử

dụng các nguồn lực sản xuất xã hội để góp phần thực hiện các chỉ tiêu kinh tế xã hội, thúc

đẩy nền kinh tế xã hội phát triển. Thứ hai, hiệu quả kinh doanh của NHTM còn thể hiện

trực tiếp ở việc làm lợi cho ngân hàng một trong các chỉ tiêu, một số chỉ tiêu hoặc tất cả

các chỉ tiêu như lợi nhuận, số lượng khách hàng, thị phần,... Hai nhận thức này có quan hệ

chặt chẽ, bổ sung cho nhau và không thể tách rời nhau.

Như vậy, trước hết, hiệu quả kinh doanh của NHTM mà không gắn liền với sự

phát triển của nền kinh tế thì hiệu quả đó là hiệu quả cục bộ. Do đó, trong bất kỳ trường

hợp nào, hoạt động kinh doanh của NHTM cũng phải góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát

triển, phù hợp với định hướng, mục tiêu của Nhà nước. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh

của ngân hàng không thể tham gia vào quá trình sản xuất xã hội với bất kỳ giá nào, ngân

hàng không thể đầu tư vốn thiếu sự tính toán, cân nhắc trên cơ sở các dự án có tính khả thi.

Thứ hai, hiệu quả kinh doanh của NHTM còn phải đảm bảo thực hiện mục tiêu của các

nguồn vốn. Chẳng hạn, mục tiêu của nguồn vốn huy động là để cho vay xóa đói giảm

nghèo, có hoàn trả hoặc không hoàn trả, có trả lãi vay hoặc không trả lãi vay, vay ngắn

hạn hay dài hạn,... tùy theo tính chất của từng nguồn vốn. Thứ ba, hiệu quả kinh doanh

của NHTM còn phải thực hiện có hiệu quả các cơ chế về hoạt động kinh doanh của

NHTM, như đảm bảo khả năng an toàn vốn, chất lượng tài sản có, hệ thống quản trị

ngân hàng, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán,...

Từ những phân tích trên, luận văn rút ra nhận thức về hiệu quả kinh doanh của

NHTM như sau:

Một là, hiệu quả kinh doanh của NHTM là một bộ phận không thể tách rời của

hiệu quả tái sản xuất toàn bộ xã hội. Quá trình thực hiện đầu tư vốn cũng như các hoạt

động kinh doanh khác của NHTM thể hiện thời điểm tạm thời của quá trình tái sản xuất,

đảm bảo hiệu quả cao hơn của mỗi chu kỳ tái sản xuất tiếp theo. Việc nghiên cứu hiệu quả

kinh doanh của NHTM không thể tách rời khỏi mối quan hệ với hiệu quả của toàn bộ nền

8

kinh tế quốc dân. Vì thế, tiêu chuẩn hiệu quả kinh doanh của NHTM phải gắn liền với tiêu

chuẩn hiệu quả phát triển kinh tế quốc dân trong một tổng thể.

Hai là, hiệu quả kinh doanh của NHTM đồng nghĩa với việc đạt được sự thống

nhất về lợi ích giữa khách hàng, ngân hàng và nền kinh tế quốc dân.

Ba là, thực hiện có hiệu quả mối quan hệ giữa mục tiêu kinh doanh và tiêu

chuẩn hiệu quả của NHTM. Theo nguyên tắc này, mục tiêu là tiêu chuẩn để xác định

hiệu quả kinh tế, khi mục tiêu thay đổi thì tiêu chuẩn xác định hiệu quả kinh tế cũng

thay đổi. Mỗi chủ thể có những mục tiêu khác nhau khi tham gia hoạt động đầu tư vốn

và thay đổi tùy theo từng thời kỳ. Nếu một NHTM xem nâng cao lợi nhuận là mục tiêu

hàng đầu thì tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá hiệu quả kinh tế là quy mô lợi nhuận và tỷ

suất lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư vốn. Còn khi ngân hàng không nhấn mạnh

yêu cầu về lợi nhuận mà nhấn mạnh mục tiêu trước mắt là thu hút khách hàng và mở

rộng đầu tư vốn thì tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả là số lượng dự án đầu tư và số

lượng khách hàng được đầu tư,...

Hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM quyết định trực tiếp đến sự tồn tại

và phát triển của NHTM. Nếu NHTM hoạt động kinh doanh có hiệu quả thì uy tín tăng

lên, khách hàng tin tưởng và đặt mối quan hệ giao dịch nhiều hơn. Ngược lại, nếu

NHTM hoạt động kinh doanh không hiệu quả, khách hàng sẽ không đến giao dịch,

NHTM không thể tồn tại. Do đó, các NHTM luôn xem hiệu quả hoạt động kinh doanh

là mục tiêu quan trọng hàng đầu.

1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương

mại

Hiệu quả hoạt động kinh doanh là điều kiện quyết định sự tồn tại và phát triển

của một ngân hàng, để điều hành hoạt động kinh doanh của ngân hàng hiệu quả đòi

hỏi các nhà quản trị phải xác định được các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động

kinh doanh nhằm hạn chế rủi ro tiềm ẩn, bảo toàn vốn, nâng cao thu nhập và lợi

nhuận. Các nhân tố này được chia thành hai nhóm, đó là nhóm nhân tố khách quan và

nhóm nhân tố chủ quan, tùy theo điều kiện cụ thể của từng quốc gia, từng thời kỳ, từng

9

ngân hàng mà hai nhóm nhân tố này có những ảnh hưởng khác nhau đến hiệu quả kinh

doanh của các ngân hàng.

1.2.2.1. Nhóm nhân tố khách quan

- Môi trường kinh tế

Môi trường kinh tế là điều kiện tiên quyết ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả

hoạt động của NHTM. Môi trường kinh tế bao gồm:

+ Sự ổn định và phát triển của nền kinh tế quốc gia nói riêng và sự phát triển

của nền kinh tế thế giới nói chung.

+ Sự điều hành chính sách tiền tệ và quản lý hoạt động tiền tệ của NHTW.

- Môi trường chính trị

Môi trường chính trị có tác động không nhỏ đến hiệu quả hoạt động kinh doanh

của NHTM, tác động đến hệ thống pháp luật để điều chỉnh quy tắc hoạt động của

NHTM, tác động đến tư duy của nhà quản lý và định hướng hoạt động của ngân hàng.

- Môi trường xã hội

Môi trường xã hội thể hiện qua trình độ dân trí của từng vùng, từng quốc gia,

phong tục tập quán, nhu cầu và thói quen tiêu dùng.

- Môi trường tự nhiên

Sự biến động thuận lợi hay không thuận lợi của môi trường tự nhiên ảnh hưởng

trực tiếp đến kết quả sản xuất, kinh doanh của khách hàng, đồng nghĩa với việc có ảnh

hưởng gián tiếp đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Chẳng hạn khi có thiên tai, lũ

lụt, hạn hán,… nông dân sẽ bị mất mùa, không có nguồn thu nhập thì khả năng thu hồi

nợ của NHTM bị giảm sút, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của NHTM. Khi thời

tiết thuận lợi, người dân được mùa thì NHTM sẽ thu được nợ đến hạn tốt hơn.

- Môi trường công nghệ

Công nghệ phát triển cho phép các NHTM ứng dụng được công nghệ hiện đại,

đưa ra được nhiều sản phẩm dịch vụ thu hút khách hàng, tiết kiệm được chi phí, thời

gian giao dịch mang lại hiệu quả kinh doanh cao hơn.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!