Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Hiện tượng "Lóng" sử dụng trên một số báo chí dành cho giới trẻ (xét trên bình diện cấu trúc và ngữ nghĩa)
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
-------------------------------------------------------------
PHẠM THỊ THU HOÀI
HIỆN TƢỢNG “LÓNG” SỬ DỤNG
TRÊN MỘT SỐ BÁO CHÍ DÀNH CHO GIỚI TRẺ
(XÉT TRÊN BÌNH DIỆN CẤU TRÖC VÀ NGỮ NGHĨA)
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGÔN NGỮ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS Phạm Văn Tình
THÁI NGUYÊN - 2010
THÁI NGUYÊN, THÁNG …/2010
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới
PGS.TS Phạm Văn Tình, người thầy đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá
trình thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy,
hướng dẫn, quan tâm đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình học tập,
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, các bạn đồng nghiệp, các em
sinh viên khoa Ngữ văn – Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã nhiệt tình
giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn này.
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2010
Tác giả luận văn
Phạm Thị Thu Hoài
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa có ai công bố
trong một công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả
Phạm Thị Thu Hoài
MỘT SỐ QUY ĐỊNH
1. Các chữ viết tắt
HHT: Báo Hoa học trò
TGHĐ: Báo Thế giới học đường
2. Kí hiệu bảng biểu
Đánh số bảng biểu gắn với số chương, ví dụ Bảng 2.2. có nghĩa là bảng
thống kê số liệu thứ 2 trong Chương 2.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lý do khách quan
Hiện nay, dư luận xã hội quan tâm nhiều đến tình hình phát triển của
tiếng Việt, đặc biệt là trong thời mở cửa của cơ chế thị trường. Để thích nghi
với sự năng động của cuộc sống, tiếng Việt đã có sự điều chỉnh, thay đổi,
trong đó có việc mở rộng và phát triển vốn từ sẵn có. Đây là một xu hướng
của ngôn ngữ nói chung. Thực tế hiện nay cho thấy, trong sinh hoạt thường
nhật cũng như trên văn bản báo chí, có một dạng ngôn từ đang chiếm ưu thế
với mật độ xuất hiện dày đặc và khá phổ biến đó là tiếng lóng (Slang).
Vốn chỉ là một “biệt ngữ” xã hội, tiếng lóng là một dạng ngôn ngữ hẹp
được sử dụng trong một nhóm hay cộng đồng nào đó, sống “kí sinh” trong
lòng ngôn ngữ toàn dân. Từ khi hình thành, tiếng lóng đã bị coi là “lệch
chuẩn” không được khuyến khích phát triển. Nhưng đến nay, lối nói “lóng
hoá” đang có cơ hội phát triển trong xã hội hiện đại. Hiện tượng này ngày
càng có xu hướng phát triển mạnh, nhất là với giới trẻ ở các đô thị, khi nhu
cầu giữ bí mật nội dung giao tiếp đang dần trở nên cấp thiết. Một bộ phận
không nhỏ tiếng lóng khi mất vai trò của mình, đã nhập vào ngôn ngữ toàn
dân với giá trị tích cực. Sự hiểu biết và vận dụng linh hoạt một bộ phận tiếng
lóng tạo nên sự phong phú trong vốn từ ở cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
Trong xu hướng dân chủ hoá hoạt động sáng tạo văn chương nghệ thuật, tiếng
lóng ngày càng có vị trí và vai trò nhất định trọng cần được quan tâm.
1.2. Lý do chủ quan
Con người khi giao tiếp bằng ngôn ngữ luôn chú ý đến việc tổ chức lời
nói như thế nào cho tốt, cho hay để người nghe có thể tiếp nhận dễ dàng.
Thực tế tiếng Việt hiện đại cho thấy, tiếng lóng ngày càng được nhiều nhóm
xã hội sử dụng hơn. Không dừng lại trong ngôn ngữ của giới trẻ, tiếng lóng
đang xâm nhập nhiều vào tầng lớp doanh nhân, trí thức,.. cho dù cộng đồng
sử dụng nó có muốn hay không muốn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
2
Hiện nay, báo chí đang đứng trước câu hỏi “viết cho ai”, “viết với mục
đích gì”, để thỏa mãn được yêu cầu đặt ra với nhiều đối tượng, thuộc các trình
độ văn hóa khác nhau không phải là điều dễ dàng. Tìm hiểu về “Hiện tượng
lóng trên ngôn ngữ báo chí” là bước chân vào địa hạt khá rộng, trên một nền
tư liệu lớn, đồ sộ bao gồm: báo in, báo phát thanh và báo hình. Tuy nhiên
trong phạm vi đề tài này, ngôn ngữ báo phát thanh và báo hình còn để ngỏ,
với lý do đối tượng nghiên cứu là “hiện tượng lóng”, một hiện tượng ngôn
ngữ “lệch chuẩn”, xuất hiện không nhiều lắm trên ngôn ngữ phát thanh
truyền hình. Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi xin tập trung vào “hiện
tượng lóng” trên một số báo chí được giới trẻ hiện nay quan tâm, yêu thích
như: Tuổi trẻ cười, Sinh viên Việt Nam…và đặc biệt là báo Thế giới học
đường và Báo Hoa học trò.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Sưu tầm, biên soạn nghiên cứu hiện tượng “lóng” trong ngôn ngữ
nói chung
Tiếng lóng là slang, cant (tiếng Anh), là argot, jargon (tiếng Pháp).
Không biết chích xác từ slang xuất hiện khi nào, nhưng từ năm 1736 đã
xuất hiện từ điển Nathan Bailey‟s Canting Dictionary (thieving slang).
Trong từ điển này, người ta sưu tầm từ ngữ của bọn trộm cắp (foot-pads),
ăn mày (beggars), dân lang thang (gypsies), bọn lường gạt (cheats), bọn
đào ngạch, khoét vách, bẻ khóa (house-breakers), phu bốc vác (shoplifters), bọn cướp đường (highway-men)…Ban đầu phạm vi sử dụng của
tiếng lóng còn nhiều hạn chế, thường bắt gặp ở vỉa hè hay nơi chợ búa, dần
dần tiếng lóng đã xâm nhập sâu rộng hơn vào ngôn ngữ chung của cộng
đồng. Nó không bị điều khiển hay chịu sự đè nén của thực tế xã hội, có thể
tự do hình thành và biến mất.
Từ đầu thế kỷ XX, tiếng lóng Việt Nam đã được nhiều học giả trong và
ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Đây có thể coi là một chủ đề lý thú, nóng
bỏng, thu hút được sự tò mò của nhiều cây bút và đông đảo độc giả. Công
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
3
trình đầu tiên về tiếng lóng trong tiếng Việt là bài viết mang tựa đề L‟argot
annamite (tiếng lóng trong tiếng An Nam) được đăng năm 1905 trong tập san
BEFEO của trường Viễn Đông Bác Cổ (Hà Nội), của học giả nước ngoài J. N.
Cheon. Sau 20 năm - năm 1925, khảo luận L‟argot annamite de Hanoi (Tiếng
lóng Việt Nam ở Hà Nội) của Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố chính thức được
công bố… Trong thời gian qua, nhiều chuyên gia đầu ngành về Việt ngữ học
đã dồn nhiều tâm sức để nghiên cứu về vấn đề này. Song cho đến nay vẫn tồn
tại nhiều ý kiến trái chiều xoay quanh cách nhìn nhận, đánh giá về hiện tượng
ngôn ngữ phức tạp này.
Quan điểm thứ nhất lên án sự tồn tại của tiếng lóng, làm mất đi vẻ
đẹp thuần túy, trong sáng của tiếng Việt. Theo quan điểm này, Nguyễn
Văn Tu và Nguyễn Kim Thản cho rằng: Tiếng lóng là hiện tượng không
lành mạnh trong ngôn ngữ, nó chỉ tồn tại trong xã hội có giai cấp và dần
dần nó sẽ bị đào thải. Vì vậy quan điểm này triệt để chống tiếng lóng,
kiên quyết loại bỏ tiếng lóng ra khỏi ngôn ngữ cộng đồng. Quan điểm này
đã được hai tác giả đề cập trong ấn phẩm “Từ và vốn từ tiếng Việt hiện
đại” (NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp 1976) và “Tiếng Việt
trên đường phát triển” (NXB Khoa học xã hội 1982).
Đi ngược lại với quan điểm trên, nhiều học giả và các nhà nghiên cứu
tên tuổi đã lên tiếng bênh vực tiếng lóng, nhìn nhận tiếng lóng dưới cái nhìn
khách quan. Họ chấp nhận những giá trị tích cực, góp phần bổ sung và làm
sinh động hơn cho ngôn ngữ toàn dân của tiếng lóng. Đó là ý kiến phát biểu
của Trịnh Liễn và Trần Văn Chánh tại hội nghị “Giữ gìn sự trong sáng của
tiếng Việt” tổ chức tại Hà Nội năm 1979. Đồng thuận với quan điểm trên,
Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn “Từ vựng tiếng Việt” cũng đã đưa ra lý lẽ của
mình bảo vệ một số tiếng lóng tốt, có giá trị thẩm mỹ và văn hóa. (NXB Đại
học và Trung học chuyên nghiệp 1985)
Từ trước tới nay, đã có không ít công trình bàn về tiếng lóng. Năm
1979, Trịnh Liễn và Trần Văn Chánh đã có báo cáo khoa học về vấn đề này;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
4
hay đi sâu vào thực tế sử dụng trong từng ngành nghề, Chu Thị Thanh Tâm có
bài “Tiếng lóng trong giao thông vận tải” (Ngôn ngữ và đời sống, 1998).
Song khách quan nhìn nhận mức độ nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở một vài
chương, đoạn trong các mục bàn về từ vựng học, tu từ học, phong cách
học…chưa đi vào thống kê số liệu, xử lí và giải mã các thông tin có liên quan.
Đến năm 2001, một chuyên luận độc lập nghiên cứu về tiếng lóng đã ra
đời và chính thức được phát hành rộng rãi. Đó là cuốn “Tiếng lóng Việt Nam”
của tác giả Nguyễn Văn Khang do NXB Khoa học xã hội xuất bản. Cuốn sách
được chia làm hai phần: Phần I - Đặc điểm tiếng lóng Việt Nam, Phần II - Từ
điển từ ngữ lóng tiếng Việt. Sau đó, đến quý I năm 2008, Trung tâm Văn hóa
và Ngôn ngữ Đông Tây kết hợp với NXB Công an Nhân dân ấn hành cuốn
“Sổ tay từ - ngữ lóng tiếng Việt”. Đây là một đóng góp rất đáng quý cho ngôn
ngữ học, bởi tập hợp được nhiều nhất vốn từ ngữ lóng trong tiếng Việt với lời
giải nghĩa khá thỏa đáng.
2.2. Sưu tầm, nghiên cứu hiện tượng “lóng” trong ngôn ngữ báo chí
Đất nước đang phát triển đi lên, trong thời kỳ hội nhập quốc tế, bên
cạnh việc tiếp thu, chắt lọc nét đẹp tinh hoa ngôn ngữ của các quốc gia, dân
tộc trên thế giới thì sự trong sáng, chuẩn mực của tiếng Việt lại đang chịu tác
động ngược chiều, bởi không ít ảnh hưởng tiêu cực. Ngày nay, dư luận đang
lên tiếng cảnh báo về sử dụng tiếng Việt một cách tùy tiện, lai căng, vay
mượn ngôn ngữ vô lối xuất hiện ngày càng nhiều trong đời sống xã hội. Điều
đáng nói là ngay cả một số cơ quan ngôn luận như báo chí cũng chấp nhận sự
dễ dãi, bất chấp quy luật chuẩn mực của ngôn ngữ.
Báo chí ngoài chức năng cung cấp thông tin và định hướng dư luận còn
có trách nhiệm góp phần định hình ngôn ngữ cho độc giả, đặc biệt là báo viết
cho giới trẻ. Tuy nhiên, những năm gần đây nhiều tờ báo dùng cả thứ ngôn
ngữ chợ búa, mất thẩm mỹ lên các trang báo như “tanh tưởi”, “chuối”, “tởm
lợm”… lối nói chuyện tếu táo đường phố như “buồn như con chuồn chuồn”,
“chán như con gián”,… gây cảm giác khó coi, đôi khi phản cảm cho độc giả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
5
lớn tuổi. Trong sự phát triển của ngôn ngữ, tiếng lóng cũng chỉ là một trong
nhiều hình thức ví von có thô tục, có thanh tao, có châm biếm,… nó chỉ phù
hợp trong những ngữ cảnh nhất, góp phần làm cho câu chuyện thêm phong
phú. Có thể nói, hiện tượng “lóng” là một nét văn hóa khá mới, đi liền với
cuộc sống, nó thỏa mãn nhu cầu của con người như vui vẻ, làm cho cách nghĩ
và sự tưởng tượng thêm linh hoạt, tuy nhiên cũng giống ẩm thực nếu “gia vị”
quá đậm sẽ khó được chấp nhận.
Tiếng lóng một hiện tượng ngôn ngữ xã hội khá phức tạp, đã được
nhiều tác giả dày công nghiên cứu. Tuy nhiên, việc gắn kết lý thuyết vào công
việc nghiên cứu cụ thể trên văn phong báo chí còn nhiều hạn chế, chưa mang
lại hiệu quả rõ rệt. Cho đến nay, chúng tôi chưa thấy một công trình nào dành
toàn bộ dung lượng để nghiên cứu và chỉ ra đặc điểm của ngôn ngữ “lóng”
trên báo chí. Một khối lượng lớn tiếng lóng vẫn trôi nổi, chưa được thống kê,
phân loại và nhận định đúng mức về giá trị sử dụng.
2.3. Đánh giá kết quả nghiên cứu của những người đi trước và những vấn
đề còn bỏ ngỏ
Ngôn ngữ lóng - loại khẩu ngữ đặc thù dùng trong giao tiếp phi chính
thức đã được quan tâm nghiên cứu từ khá sớm. Nhưng khoảng chục năm trở
lại đây, hiện tượng này mới thực sự dành được sự quan tâm của nhiều học giả
trong nước, với số lượng công trình và bài viết khá đáng kể. Theo nhìn nhận
khách quan của người nghiên cứu:
- Các tác giả đều thừa nhận sự tấn công mạnh mẽ của ngôn ngữ lóng
vào ngôn ngữ toàn dân.
- Bước đầu chỉ ra giá trị, vai trò cũng như hạn chế của nó trong hoạt
động giao tiếp.
- Phân tích sự ảnh hưởng của yếu tố ngôn ngữ này trong hoạt động giao
tiếp trên hai khía cạnh là ảnh hưởng tích cực và tiêu cực.
- Thiết lập được hệ thống từ ngữ lóng thường dùng và bước đầu chỉ ra ý
nghĩa biểu hiện của chúng trong văn cảnh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
6
Một số điều còn bỏ ngỏ
- Các tác giả mới chỉ quan tâm đến hiện tượng “lóng” dưới dạng chữ
viết, chưa chú ý tới các dạng biểu hiện khác như mật mã, kí tự lóng.
- Các tác giả chưa đặt hiện tượng lóng vào từng văn phong cụ thể, để
chỉ ra sắc thái biểu cảm và ý nghĩa tinh tế của nó.
- Các tác giả đã chỉ ra vai trò của hiện tượng “lóng” song chưa thật đầy
đủ và sâu sắc.
- Nhiều ý kiến đánh giá về hiện tượng này còn phiến diện, một chiều.
Từ thực tiễn sinh động đó đã thôi thúc chúng tôi bắt tay tìm hiểu về
hiện tượng “lóng” sử dụng trên một số báo chí dành cho giới trẻ hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thống kê, phân loại, miêu tả và đánh giá các hiện tượng “lóng” sử
dụng trên báo chí về các phương diện ngôn ngữ, cho thấy sự phong phú, sinh
động của hiện tượng “lóng” trong thực tế nói chung và trên báo chí nói riêng.
Trên cơ sở đó, chúng tôi muốn góp phần làm sáng rõ đặc điểm và cách thức
sử dụng của hiện tượng này trên báo chí.
Ngoài mục đích nói trên, khi nghiên cứu vấn đề này, người viết hy
vọng luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cho những ai muốn tìm hiểu về
hiện tượng “lóng” trong tiếng Việt và nghệ thuật sử dụng hiện tượng này
trên báo chí hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa một số khái niệm liên quan đến hiện tượng “lóng”.
- Thống kê các hiện tượng “lóng” sử dụng trên báo chí và tiến hành
miêu tả, phân loại.
- Tìm hiểu vai trò, chức năng và nghệ thuật của hiện tượng “lóng”, qua đó
đưa ra những nhận xét bước đầu về xu hướng phát triển của hệ thống từ vựng này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
7
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Bước đầu khảo sát các biểu hiện của hiện tượng “lóng” trên một số báo
chí dành cho giới trẻ. Các chuyên mục được lựa chọn khảo sát là những trang
thông tin, giải trí, bài viết chia sẻ hiểu biết, kinh nghiệm…của tuổi mới lớn.
Những chuyên mục này sẽ giúp luận văn có một nguồn tư liệu khá phong phú
khi tìm hiểu vấn đề về hiện tượng lóng. Thêm nữa, luận văn có ý muốn chọn
đối tượng nghiên cứu là các báo gần gũi với học sinh THPT, bởi ở lứa tuổi
này ngôn ngữ “lóng” xuất hiện nhiều và sinh động hơn cả. Cụ thể các chuyên
mục được lựa chọn khảo sát bao gồm:
STT
TÊN CHUYÊN MỤC
BÁO HOA HỌC TRÕ THẾ GIỚI HỌC ĐƢỜNG
1 Forum Teen Chuyển động học đường
2 Thông tin – Quảng cáo Xa lộ giải trí
3 Truyện ngắn Tuổi trưởng thành
4 Chánh văn Tổng đài Teen
5 5TV Đối thoại
6 Văn phòng Divu Cẩm nang Body
7 Những trái tim đang lớn Tisp shopping
8 Đường dây nóng Rubic tình yêu
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Hiện tượng “lóng” được sử dụng khá phổ biến, đặc biệt là trong giao
tiếp thường nhật. Song khác các nghiên cứu trước đây, từ lóng được mở rộng
trên toàn phạm vi ngôn ngữ để phân tích. Trong luận văn này, chúng tôi chỉ đi
sâu tìm hiểu hiện tượng “lóng” trên báo chí, đặc biệt là các báo dành cho giới
trẻ (Hoa Học Trò, Thế giới học đường) từ 2006 trở lại đây.
Từ việc nghiên cứu ngôn ngữ “lóng” với tư cách là một bộ phận từ
vựng, chúng tôi đi vào miêu tả hiện tượng này trên các bình diện cấu trúc
và ngữ nghĩa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
8
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
5.1. Phương pháp thống kê, phân loại
Phương pháp nghiên cứu này được chúng tôi dùng để thống kê, phân
loại những hiện tượng “lóng” đã sử dụng trên báo chí.
5.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Trước hết, chúng tôi dùng phương pháp này để phân tích các kết quả
khảo sát. Qua đó, chúng tôi tiến hành tổng hợp chúng lại thành từng nhóm và
tổng kết các kết quả đã nghiên cứu được.
5.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu này, chúng tôi muốn đối chiếu, so
sánh cách thức sử dụng hiện tượng “lóng” trực tiếp và gián tiếp, từ đó tìm ra
giá trị tích cực và tiêu cực của hiện tượng “lóng” trên báo chí.
6. Những đóng góp của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
Các kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung vào hệ thống
lí luận của ngôn ngữ học xã hội qua hiện tượng “lóng”, từ đó làm sáng rõ
những mặt tích cực, hạn chế của bộ phận từ vựng này.
6.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được vận dụng để góp phần
làm phong phú thêm cho các chuyên đề dạy học về từ vựng. Đồng thời, đưa ra
hướng tạo lập và phát triển vốn ngôn ngữ hiện nay.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý thuyết
Chƣơng 2: Cấu trúc của hiện tượng “lóng” sử dụng trên một số báo chí
dành cho giới trẻ.
Chƣơng 3: : Đặc điểm ngữ nghĩa của hiện tượng “lóng” sử dụng trên
một số báo chí dành cho giới trẻ.
Cuối cùng là Thư mục tham khảo và Phụ lục.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
9
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Khái quát về ngôn ngữ báo chí
1.1.1. Ngôn ngữ báo chí
Trong thời kỳ kinh tế thị trường hiện nay, thông tin nhanh là một trong
những yếu tố quan trọng quyết định nên sự thành bại của nhiều lĩnh vực kinh
tế, chính trị, văn hóa…và phương tiện đắc lực, hữu hiệu đưa thông tin đến với
độc giả chính là ngôn ngữ báo chí.
Ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ văn học có sự giao thoa ở phương
diện ngôn ngữ. Ngôn ngữ báo chí có nhiều điểm giống ngôn ngữ văn học
như cùng dùng văn tự, từ ngữ để chuyển tải nội dung, song lại có những
điểm khác biệt cơ bản.
Trước hết, ngôn ngữ văn học giàu tính hình tượng, giàu khả năng gợi
cảm. Thứ hai, ngôn ngữ văn học giàu tính biểu cảm. Thứ 3, ngôn ngữ văn học
giàu tính hàm súc, cô đọng. Trong khi đó, ngôn ngữ báo chí lại có những nét
đặc trưng khác biệt. Ngôn ngữ báo chí phải là ngôn ngữ của những sự kiện,
cần phải mang tính chính xác, cụ thể, không hư cấu, luôn phản ánh chính xác
hiện thực. Ngôn ngữ báo chí cần phải có tính chất định lượng rõ ràng. Ngôn
ngữ báo chí phải là ngôn ngữ có tính chất bình giá, ngôn ngữ báo chí cần phải
mang tính khuôn mẫu.
Ảnh hưởng qua lại giữa văn học và báo chí là ảnh hưởng song phương,
đa chiều. Tuy nhiên cũng phải khách quan thừa nhận rằng, văn học môn khoa
học cơ bản với bề dày lịch sử lâu đời đã trở thành cái gốc, dòng sữa mẹ trong
lành nuôi dưỡng báo chí phát triển. Hướng tác động từ văn học tới báo chí là
hướng tác động thuận chiều: vừa mạnh mẽ hơn, vừa sâu sắc hơn.
Đi theo sự phát triển của nhiều loại hình thông tin đại chúng, ngôn ngữ
báo chí cũng dần tách ra theo từng ngành riêng. Trong đó, ngôn ngữ báo viết
và ngôn ngữ báo mạng phục vụ nhu cầu đọc của công chúng bằng thị giác.
Do đó, nó cần rõ ràng, khúc chiết và có thể sử dụng kèm nhiều hình ảnh bổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
10
trợ. Trái lại, ở ngôn ngữ báo phát thanh, chỉ thông qua thính giác, người nghe
có thể tưởng tượng ra hình thái, quy mô, diễn biến của sự kiện đang xảy ra.
Đối với thể loại này, ngoài nghệ thuật sử dụng từ ngữ là các từ tượng hình,
tượng thanh cần quan tâm đến trật tự câu sao cho thật ngắn gọn, dễ hiểu.
Ngôn ngữ báo hình thu hút được sự quan tâm của công chúng nhiều hơn cả.
Lợi thế lớn nhất của thể loại này là những hình ảnh sống động, ngôn từ
bám sát khuôn hình và dễ nảy sinh cảm xúc cho người xem.Việc tiếp nhận
thông tin bằng thị giác bao giờ cũng sâu hơn, hiệu quả hơn bằng thính giác.
Hơn nữa, đối với thể loại báo hình, công chúng có sự phối kết hợp giữa
xem bằng mắt và nghe bằng tai nên lợi thế hơn nhiều so với các thể loại
báo khác. Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi dành sự quan tâm cho thể
loại báo in được xuất bản định kỳ (đặc biệt là các báo in dành cho giới trẻ).
Tiêu chí lựa chọn của chúng tôi xuất phát từ cách thức trình bày, báo in thể
hiện nội dung trực tiếp trên bề mặt câu chữ, người đọc không khó khăn
trong việc tìm kiếm và lưu trữ.
1.1.1.1. Chức năng của ngôn ngữ báo chí
1.1.1.1.1 Chức năng cung cấp thông tin
Báo chí ra đời trước hết do nhu cầu nắm bắt thông tin của cuộc sống
hiện đại. Hàng ngày, con người giao tiếp, trao đổi thông tin thường xuyên với
nhau về mọi lĩnh vực của cuộc sống như: các sự kiện chính trị - xã hội, kiến
thức chuyên ngành hay những vấn đề tâm lý được người đọc quan tâm… Xã
hội đang phát triển lên từng ngày, nhu cầu về sự hiểu biết ngày một tăng cao,
báo chí trở thành công cụ đắc lực, hữu hiệu trong việc chia sẻ thông tin, khắc
phục tình trạng nghèo nàn tri thức cho độc giả.
Cung cấp thông tin là chức năng đầu tiên của báo chí. Để thực hiện tốt
chức năng này ngôn ngữ phải đảm bảo tính khách quan, trung thực. Các thông
tin được lựa chọn đảm bảo tính xác thực, lành mạnh, mở rộng sự hiểu biết,
hướng tới sự phát triển toàn diện cho con người. Ngôn ngữ phải lý trí, không