Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Giáo trình-Truyền giống nhân tạo vật nuôi - chương 4 pptx
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
97
Chương IV
PHA LOÃNG, BẢO TỒN, VẬN CHUYỂN TINH DỊCH
Pha loãng, bảo tồn nhằm mục đích tăng thể tích tinh dịch, kéo dài thời gian sống
của tinh trùng ngoài cơ thể. Do đó, góp phần nâng cao sức sản xuất của đực giống,
nhất là đối với những đực giống tốt và rộng bán kính gieo tinh. Ví dụ: ở bò, lượng tinh
trong một lần xuất tinh là 5ml, nếu pha loãng 10 lần sẽ phối được cho 10 bò cái. Ở lợn
nội: Lượng tinh một lần xuất bình thường là 250ml, nếu pha loan 4 lần sẽ phối được
cho 30 lợn nái với liều phối 30 ml/con/11iều. Ngoài ra, nếu để tinh dịch nguyên trong
điều kiện bình thường ở bên ngoài cơ thể, tinh trùng chỉ sống được từ 6- 12 giờ, nhưng
đem pha loãng và đưa vào bảo tồn trong điều kiện môi trường thích hợp, tinh trùng có
thể sống được vài ngày, vài tháng, vài năm và thậm chí có thể lâu hơn. Hiện nay,
người ta có thể bảo tồn tinh dịch của một số giống động vật quí. hiếm được trên 10
năm mà vẫn còn khả năng thụ thai. Vì vậy, người ta có thể vận chuyển tinh dịch đi rất
xa, trong một thời gian rất dài
Với ý nghĩa đó, pha loãng, bảo tồn tinh dịch giữ vai trò hết sức quan trọng trong
công tác thụ tinh nhân tạo.
1. Các nguyên tắc của môi trường pha chế, bảo tồn tinh dịch .
Sau khi nghiên cứu đặc điểm của tinh dịch và các thành phần trong tinh dịch,
Ivanop I.K (1890) đã khẳng định. Tinh thanh chỉ là môi trường giúp cho tinh trùng
hoạt động, nó không cần thiết cho quá trình thụ thai và có thể sử dụng tinh trùng đã
được pha loãng trong các dung dịch nhân tạo để dẫn tinh cho các súc vật cái mà vẫn
sinh ra đời con một cách bình thường.
Về mặt hoá học và sinh học có thể coi môi trường pha loãng, bảo tồn tinh dịch là
những môi trường hoá học thoả mãn đến mức tối đa các điều kiện sống của tinh trùng.
Để đạt được các yêu cầu trên và có thể áp dụng trong sản xuất, theo viện sĩ
Milovanop, môi trường pha loãng, bảo tồn tinh dịch phải thỏa mãn sáu nguyên tắc cơ
bản dưới đây:
1.1. Áp lực thẩm thấu (Posm)
Áp lực thẩm thấu của môi trường phải tương đương áp lực thẩm thấu của tinh
dịch. Áp lực thẩm thấu là áp suất cần thiết trong dung dịch tác động lên màng tế bào
làm ngừng hiện tượng thẩm thấu. áp lực thẩm thấu P = R.T.C
Trong đó: R: là hằng số khí = 0,082 lít atm/mol độ.
T: nhiệt độ tuyệt đối = t0
C + 273
C: nồng độ dung dịch = mol/lít.
Đây là nguyên tắc cao nhất, vì chỉ trong điều kiện cân bằng về áp lực thẩm thấu
tinh trùng mới giữa nguyên được hình thái và quá trình trao đổi chất. Thật vậy, môi
trường ưu trương hay nhược trương đều có thể giết chết tinh trùng, bởi vì trong các
98
môi trường này tinh trùng sẽ bị teo đi hay trương phồng lên dẫn tới cấu trúc bị thay đổi
tinh trùng bị chết một cách nhanh chóng.
1.2. Độ pH
Môi trường phải có độ pH tương đương độ pH của tinh dịch hoặc hơi toan một
chút. Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy, độ pH của môi trường từ 6,4-6,7 là tốt nhất.
Ở độ pH này, tinh trùng trao đổi chất ở cường độ thấp, nên thời gian sống của tinh
trùng lâu hơn.
1.3. Năng lực đệm của môi trường(β)
Bảo tồn tinh dịch là giữ cho tinh trùng sống. Sự sống luôn được gắn liền với quá
trình trao đổi chất mà bản chất quá trình trao đổi chất của tinh trùng trong thời gian
bảo tồn là quá trình đường phân yếm khí. Quá trình này luôn thải ra môi trường axit
lactic, làm cho nồng độ H+
trong môi trường luôn có xu hướng tăng lên. Sự tăng lên
của các con H+
có nguy cơ gây đầu độc tinh trùng. Trên thực tế, hệ đệm tự nhiên trong
tinh dịch không đủ khả năng giữ ổn định pH của tinh dịch. Do đó, phải bổ sung chất
đệm vào môi trường để giữ ổn định pH trong quá trình bảo tồn. Các chất đệm sử dụng
trong môi trường thường là đệm một chiều, như muối kim loại kiềm của các axit hữu
cơ yếu như: Natri xitrat, Kim tartrat, Natri bicarbonat...
Đối với tinh dịch trâu, bò, do tinh dịch có nồng độ tinh trùng lớn, khả năng trao
đổi chất mạnh, nên người ta thường bổ sung vào môi trường các chất có năng lực đệm
cao, như: hệ đệm phôtphát NaH2PO4/Na2HPO4 và KH2PO4/K2HPO4)
1.4. Tỷ lệ giữa chất điện giải và chất không điện giải
Môi trường phải đảm bảo có tỷ lệ giữa chất điện giải và không điện giải thích
hợp.
Các chất không điện giải thường là các đường (glucose, fructose...). Ngoài việc
cung cấp năng lượng cho tinh trùng trong quá trình trao đổi chất, đường có vai trò rất
quan trọng trong việc bảo vệ tinh trùng tránh cho tinh trùng không bị mất điện tích bề
mặt, một nguyên nhân gây ra hiện tượng kết dính tinh trùng thành từng đám. Sở dĩ
trường có vai trò như vậy vì nó là chất không điện giải có tác dụng pha loãng nồng độ
ion trong môi trường, do đó làm giảm tác động của các con tới màng nguyên sinh chất
của tinh trùng..
Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thiện và Nguyễn Tấn Anh cho
thấy, các đường đơn (glucose, fructose) khi sử dụng làm môi trường pha loãng tinh
dịch cho lợn bị phân huỷ nhanh chóng bởi tinh trùng, vì vậy các tác giả khuyên nên bổ
sung vào môi trường những loại đường mà tinh trùng khó phân giải như: saccarose,
arabinose...
Trên thực tế, tinh trùng rất mẫn cảm với các dung dịch muối, như: NaCl,
BaCl2…, nhưng trong quá trình pha chế, người ta vẫn phải đưa vào môi trường một
lượng nhất định muối không độc và có chứa các anìon có hoá trị cao.