Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Giáo trình Hóa phân tích 2
PREMIUM
Số trang
162
Kích thước
1.7 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1045

Giáo trình Hóa phân tích 2

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

I. THÔNG TIN VỀ TÁC GIẢ CỦA GIÁO TRÌNH

-

-

-

-

- Họ và tên: Lê Thị Mùi

- Năm sinh: 1955

- Cơ quan công tác: Bộ môn Hóa phân tích - Khoa Hóa - Trường Đại học Sư

phạm Đà Nẵng

- Email: [email protected]

II. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG SỬ DỤNG GIÁO TRÌNH:

- Giáo trình có thể dùng tham khảo cho các ngành:

+ Chuyên hóa sư phạm

+ Hóa kỹ thuật

+ Sinh môi trường

+ Địa lý - Tài nguyên môi trường

- Các trường có thể sử dụng: Bách khoa, Sư phạm

- Yêu cầu kiến thức trước khi học môn này: Hóa đại cương, Hóa vô cơ

- Giáo trình này chưa xuất bản in.

2

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

XY ZW

LÊ THỊ MÙI

HÓA HỌC PHÂN TÍCH

(Giáo trình dùng cho sinh viên chuyên ngành Sinh Môi trường, Hóa kỹ thuật)

Đà Nẵng, 2006

3

LỜI MỞ ĐẦU

Hóa học phân tích là môn khoa học về các phương pháp xác định thành phần

định tính và định lượng của các chất và hỗn hợp của chúng. Như vậy, hóa phân tích

bao gồm các phương pháp phát hiện, nhận biết cũng như các phương pháp xác định

hàm lượng của các chất trong các mẫu cần phân tích.

Phân tích định tính nhằm xác định chất phân tích gồm những nguyên tố hóa học

nào, những ion, những nhóm nguyên tử hoặc các phần tử nào có trong thành phần

chất phân tích. Khi nghiên cứu thành phần một chất chưa biết, phân tích định tính

phải được tiến hành trước phân tích định lượng vì việc chọn phương pháp định lượng

các hợp phần của chất phân tích phụ thuộc vào các dữ liệu nhận được khi phân tích

định tính chất đó.

Phân tích định tính dựa vào sự chuyển chất phân tích thành hợp chất mới nào

đó có những tính chất đặc trưng như có màu, có trạng thái vật lý đặc trưng, có cấu

trúc tinh thể hay vô định hình, ...

Phân tích định lượng cho phép xác định thành phần về lượng các hợp phần của

chất cần phân tích.

Nội dung của hóa học phân tích là giải quyết những vấn đề chung về lý thuyết

của phân tích hóa học, hoàn thiện những luận thuyết riêng về các phương pháp phân

tích hiện có và sẽ được xây dựng.

Hóa học phân tích đóng vai trò quan trọng và có thể nói đóng vai trò sống còn

đối vối sự phát triển các môn hóa học khác cũng như các ngành khoa học khác nhau,

các lĩnh vực của công nghệ, sản xuất và đời sống xã hội. Chỉ cần đơn cử một ví dụ:

Muốn tổng hợp một chất mới rồi nghiên cứu các tính chất cũng như những ứng dụng

của nó nhất thiết phải sử dụng các phương pháp phân tích thích hợp để xác định

thành phần nguyên tố, mức độ tinh khiết, xác định cấu trúc của nó. Chính vì thế,

Engel đã từng nói: “Không có phân tích thì sẽ không có tổng hợp”.

Do có tầm quan trọng như vậy nên một loạt các chuyên ngành của khoa học

phân tích đã ra đời và ngày càng phát triển mạnh như: Phân tích môi trường, Phân

tích khoáng liệu, Phân tích hợp kim, kim loại, Phân tích lâm sàng, Phân tích dược

phẩm, Phân tích thực phẩm, ...

Khi phân tích một đối tượng nào đó, nhà phân tích phải thực hiện các bước sau

đây:

a. Chọn phương pháp phân tích thích hợp và các vấn đề cần giải quyết. Khi thực

hiện bước này cần phải đặc biệt chú ý đến tầm quan trọng, ý nghĩa pháp lý và kinh tế

của công việc phân tích, chú ý đến độ đúng đắn, độ lặp lại và tính khả thi của phương

pháp phân tích.

b. Chọn mẫu đại diện là mẫu có thành phần phản ánh đúng nhất cho thành phần

của đối tượng phân tích. Từ mẫu đại diện tiến hành chọn và chuẩn bị mẫu thí nghiệm

là mẫu dùng để tiến hành phân tích chất cần xác định. Sau đó thực hiện việc biến

mẫu này thành dung dịch phân tích.

c. Tách chất: Để phân tích các mẫu có thành phần phức tạp thường phải tách hoặc

là các chất lạ, các chất ngăn cản phép xác định chất cần phân tích hoặc tách riêng

4

chất cần phân tích ra khỏi hỗn hợp với các chất khác.

d. Tiến hành định lượng chất cần phân tích, tức là thực hiện các thao tác, các

phép đo đạc phân tích để xác định nồng độ hoặc hàm lượng chất cần phân tích trong

dung dịch mẫu đã chuẩn bị trong bước trên.

e. Tính toán kết quả phân tích, đánh giá độ tin cậy của các kết quả đó.

Tất cả các bước trên đều có tầm quan trọng và liên quan mật thiết với nhau

không thể bỏ qua và coi nhẹ bước nào cả.

Tùy thuộc vào bản chất của các phương pháp phân tích mà người ta chia chúng

thành các nhóm chủ yếu sau:

1. Các phương pháp hóa học: Các phương pháp này ra đời sớm nhất, nên đến

nay người ta thường gọi nhóm phương pháp này là nhóm các phương pháp phân tích

cổ điển. Để phân tích định lượng một chất nào đó bằng phương pháp này, người ta

chỉ dùng các thiết bị và dụng cụ đơn giản (như buret, pipet, cân, ...) để thực hiện các

phản ứng hóa học. Nhóm phương pháp này chỉ dùng để định lượng các chất có hàm

lượng lớn (đa lượng) nhưng chính xác, cho nên đến nay phương pháp này vẫn được

dùng nhiều trong các phòng thí nghiệm phân tích.

2. Các phương pháp phân tích vật lý: Đó là những phương pháp phân tích dựa

trên việc đo các tín hiệu vật lý của các chất phân tích như phổ phát xạ, độ phóng xạ,

... các phương pháp này cần dùng những máy đo phức tạp.

3. Các phương pháp phân tích hóa lý: Đó là những phương pháp kết hợp việc

thực hiện các phản ứng hóa học sau đó đo các tín hiệu vật lý của hệ phân tích, như sự

thay đổi màu sắc, độ đục, độ phát quang, độ dẫn điện, ...

Các phương pháp phân tích hóa lý cũng như vật lý đòi hỏi phải dùng những

máy đo phức tạp, vì vậy chúng có tên chung là các phương pháp phân tích công cụ.

Các phương pháp phân tích công cụ ra đời sau các phương pháp phân tích hóa

học, chúng cho phép phân tích nhanh, có thể xác định lượng nhỏ chất phân tích khá

chính xác nên được ứng dụng rất rộng rãi. Với sự phát triển vũ bão của kỹ nghệ điện

tử, các ngành kỹ thuật mới và những yêu cầu ngày càng cao của các ngành khoa học

và công nghệ sản xuất hiện đại đã đòi hỏi và thúc đẩy các phương pháp phân tích

công cụ ngày càng được phát triển và hoàn thiện để đáp ứng các nhiệm vụ ngày càng

nặng nề của ngành phân tích hiện đại.

Cơ sở lý thuyết chung của hóa học phân tích là lý thuyết về các phản ứng hóa

học dùng trong phân tích. Trong giáo trình này chỉ đề cập đến lý thuyết của các loại

phản ứng phân tích và các phương pháp hóa học sử dụng các loại phản ứng đó.

Chúng tôi xin chân thành cảm ơn mọi độc giả góp ý kiến phê bình và đề nghị về

quyển sách này.

Tác giả

5

CHƯƠNG 1

DUNG DỊCH CHẤT ĐIỆN LY – CÂN BẰNG HÓA HỌC

1.1. Chất điện ly mạnh và yếu.

Các chất điện ly mạnh trong dung dịch thực tế phân ly hoàn toàn. Đa số các

muối tan, kiềm và axít mạnh đều thuộc nhóm này.

Trong dung dịch, các chất điện ly yếu phân ly không hoàn toàn. Các axit yếu,

bazơ yếu và phức chất là các chất điện ly yếu. Để đặc trưng cho khả năng phân ly

của các chất trong dung dịch, người ta dùng hai đại lượng là độ điện ly α và hằng số

điện ly (hằng số cân bằng).

Độ điện ly và hằng số điện ly liên hệ với nhau theo hệ thức Ostvant như sau:

− α

α = 1

K

2

C , trong đó c là nồng độ ban đầu của chất tan.

1.2. Cân bằng hóa học và hoạt độ.

1.2.1. Nhắc lại một số kiến thức cần dùng

Trong hóa học, khi tính toán người ta hay dùng nồng độ mol/l, cần phân biệt

các khái niệm:

Nồng độ gốc C0

là nồng độ của chất trước khi đưa vào hỗn hợp phản ứng.

Nồng độ ban đầu C là nồng độ của chất trước khi tham gia phản ứng. Nồng độ

ban đầu khác với nồng độ gốc là do sự thay đổi thể tích khi trộn các thuốc thử với

nhau:

V

C V C

0

i

0

i

i = .

0 Vi là thể tích thuốc thử i đã lấy để đưa vào hỗn hợp phản ứng. V là tổng thể

tích của hỗn hợp phản ứng.

Khi một phản ứng đạt trạng thái cân bằng thì nồng độ các chất tham gia phản

ứng tại thời điểm đó được gọi là nồng độ cân bằng. Nồng độ cân bằng thường được

ký hiệu trong ngoặc vuông [ ].

Ví dụ:

Trong dung dịch HCl: HCl = H+

+ Cl-

thì [HCl] = 0 nên CHCl = [Cl-

]

Trong dung dịch CH3COOH: CH3COOH CH3COO-

+ H+

C [CH COOH] [CH COO ] CH COOH 3 3 3

− = +

Theo định luật bảo toàn nồng độ thì nồng độ ban đầu của một cấu tử nào đó

bằng tổng nồng độ cân bằng của các dạng tồn tại của cấu tử đó ở trong dung dịch tại

thời điểm cân bằng.

Ví dụ: Biểu diễn định luật bảo toàn nồng độ ban đầu đối với ion PO4

3- trong

dung dịch Na3PO4 0,1M.

Trong dung dịch ta có Na3PO4 = 3Na+

+ PO4

3- ; H2O H+

+ OH-

PO4

3- + H+

HPO4

2-

HPO4

2- + H+ H2PO4

-

H2PO4

-

+ H+ H3PO4

6

C C 3 0,1 4 Na3PO4 PO = − =

C 0,1 [PO ] [HPO ] [H PO ] [H PO ] 2 4 3 4

2

4

3

PO3 4 4

= = + + + − − − −

Một dạng khác của định luật bảo toàn nồng độ là định luật bảo toàn điện tích.

Theo định luật này thì để đảm bảo tính trung hòa điện của dung dịch chất điện ly,

tổng điện tích âm của các anion có mặt trong dung dịch phải bằng tổng điện tích

dương của các cation có mặt trong dung dịch. Số điện tích tuyệt đối từng loại ion có

được bằng số ion tương ứng có mặt trong dung dịch nhân với điện tích của nó. Như

vậy tổng điện tích q mà mỗi loại ion có bằng tích nồng độ cân bằng của ion đó với số

Avôgađrô N và điện tích n của mỗi ion.

q = N[ ]n

Ví dụ: Trong dung dịch Na3PO4 ở trên ta có:

N[Na+

] + N[H+

] = N[OH-

] + N[H2PO4

-

] + N[HPO4

2-].2 + N[PO4

3-].3

Và ta có: [Na+

] + [H+

] = [OH-

] + [H2PO4

-

] + 2[HPO4

2-] + 3[PO4

3-].

1.2.2. Cân bằng và hằng số cân bằng.

Trong hóa học phân tích ta thường phải tính nồng độ cân bằng của các chất

tham gia và được tạo thành trong các phản ứng phân tích, tức là nồng độ của chất đó

khi phản ứng đạt tới trạng thái cân bằng. Để tính các nồng độ cân bằng, người ta

thường sử dụng biểu thức của hằng số cân bằng được thiết lập bằng cách dùng định

luật tác dụng khối lượng. Giả sử xét cân bằng hóa học:

mA + nB + ... pC + qD + ...

trong đó A, B, C, D ... là những cấu tử tham gia cân bằng mà chúng không tích điện.

áp dụng định luật tác dụng khối lượng, ta có:

K

[A] [B]

[C] [D] m n

p q

= (1.1)

trong đó [A], [B], [C], [D], ... là nồng độ cân bằng của các chất A, B, C, D, ... và K là

hằng số cân bằng, là đại lượng chỉ phụ thuộc vào nhiệt độ. Nếu A, B, C, D, ... là

những ion thì ta phải tính đến sự tương tác giữa chúng với nhau nên trong biểu thức

(1.1) ta phải thay nồng độ bằng hoạt độ.

Hoạt độ a của một chất được xác định bằng hệ thức:

a = fC (1.2)

trong đó, C là nồng độ của ion; f là hệ số hoạt độ.

Đại lượng f phụ thuộc vào lực ion µ của dung dịch. Lực ion µ biểu thị tương tác

tĩnh điện giữa các ion trong dung dịch.

Nếu Z1, Z2, ... là điện tích và C1, C2, ... là nồng độ của các ion trong dung dịch

thì lực ion µ được xác định bằng hệ thức:

(Z C Z C ...) 2

1 2

2

1 2

2 µ = 1 + + (1.3a)

Hoặc dưới dạng tổng quát:

∑=

µ =

i

i 1

i

2 Zi C

2

1 (1.3b)

Nếu µ gần bằng 0 tức là dung dịch rất loãng, tương tác tĩnh điện giữa các ion

không đáng kể, thì f bằng 1, hoạt độ bằng nồng độ.

7

* Khi µ < 0,02 thì f được tính bằng hệ thức:

= − µ 2 Z

2

1 lgf (1.4)

Ví dụ 1: Tính hoạt độ của các ion trong dung dịch hỗn hợp KCl 10-3M, MgSO4

10-3M.

Tính lực ion µ của dung dịch:

µ = 0,5(1.10-3 + 1.10-3 + 22

.10-3 + 22

.10-3) = 5.10-3

7.10 0,07 2 µ = = −

Tính hệ số hoạt độ của các ion:

log f = lgf 0,05.1.0,07 0,035 Cl− = − = −

f f 0,92 K Cl + = − =

logf logf 0,5.2 .0,07 0,14 2

Mg SO2

4 2+ = − = − = −

f f 2 0,72 4 2 Mg SO + = − =

Tính hoạt độ các ion:

3 4 1

K Cl a a 0,92.10 9,2.10 mol.l − − − + = − = =

3 4 1

Mg SO a a 2 0,72.10 7,2.10 mol.l 4 2

− − − + = − = =

* Khi 0,02 < µ <0,2 thì f được tính bằng hệ thức:

+ µ

µ = − 1

Z logf 0,5

2

(1.5)

Ví dụ 2: Tính hoạt độ của các ion trong dung dịch KCl 0,1M.

Lực ion µ của dung dịch:

µ = 0,5(12

.0,1 + 12

.0,1) = 0,1.

µ = 0,32

Hệ số hoạt độ của các ion:

0,121

1 0,32

0,5.1 .0,32 logf lgf

2

K Cl = + + = − =

f = 0,757

Hoạt độ của các ion:

1 1

K Cl a a 0,757.10 .mol.l − − + = − =

* Khi µ > 0,2 thì hệ số hoạt độ f được tính bằng công thức:

+ µ

+ µ

µ = − h

1

Z logf 0,52

2

(1.6)

trong đó h là hệ số thay đổi cùng với ion.

Thực nghiệm cho thấy rằng, trong dung dịch loãng có lực ion µ gần giống nhau

thì f của các ion có điện tích bằng nhau gần giống nhau (bảng 1.1)

8

Bảng 1.1 Hệ số F

Lực ion (µ) Điện tích 1 Điện tích 2 Điện tích 3 Điện tích 4

0,001

0,005

0,01

0,05

0,1

0,96

0,92

0,89

0,81

0,77

0,86

0,72

0,63

0,44

0,33

0,73

0,51

0,39

0,15

0,08

0,56

0,30

0,19

0,04

0,01

Nếu A, B, C, D, ... trong hệ thức (1.1) là những ion, tức là những phần tử tích

điện, thì biểu thức hằng số cân bằng có dạng sau:

n a

B

m

A

q

D

p

C K

a a

a a = (1.7)

Trong trường hợp này, Ka được gọi là hằng số cân bằng hoạt độ hay hằng số

cân bằng nhiệt động, đại lượng này chỉ phụ thuộc vào nhiệt độ (không phụ thuộc vào

hoạt độ). Thay a = fC vào biểu thức (1.7):

n

B

m

A

q

D

p

C

n C

B

m

A

m n

q

D

p

C

p q

a f f

f f K

[A] [B] ...f f

[C] [D] ...f f K = = (1.8)

trong đó, Kc được gọi là hằng số cân bằng nồng độ, đại lượng này phụ thuộc vào

nhiệt độ.

Các hằng số cân bằng của các hệ khác nhau, ví dụ hằng số axit, hằng số bazơ,

tích số ion của nước, tích số tan của các chất khó tan, hằng số bền và không bền của

các phức chất ghi trong các tài liệu thường là các hằng số hoạt độ. Trong thực tế, để

tính toán được đơn giản, khi tính nồng độ các ion trong dung dịch, hằng số cân bằng

hoạt độ thường được coi bằng hằng số cân bằng nồng độ, tức là ta bỏ qua sự tương

tác tĩnh điện của các ion trong dung dịch và coi hệ số hoạt độ bằng 1. Kết quả tính

toán, như vậy sẽ thiếu chính xác. Nhưng vì ta thường dùng các dung dịch loãng nên

sai số có thể nằm trong giới hạn có thể chấp nhận được.

Trong các chương sau, để đơn giản hóa việc tính toán, hệ số hoạt độ thường

được coi bằng 1.

Giả sử chúng ta phải xét cân bằng trên mà các chất A, B, C, D, ... trong đó còn

tham gia vào các phản ứng phụ khác (như phản ứng trao đổi proton, phản ứng tạo

phức chất, phản ứng tạo kết tủa) thì nồng độ của chúng tham gia vào cân bằng trên sẽ

giảm đi, nghĩa là các phản ứng phụ đã ảnh hưởng đến cân bằng đó. Để biểu thị ảnh

hưởng của các phản ứng phụ đến cân bằng , người ta thường dùng một dạng hằng số

gọi là hằng số điều kiện. Gọi [A’], [B’], [C’], [D’], ... là tổng nồng độ cân bằng của

các dạng của A, B, C, D, ... trong dung dịch thì [A], [B], [C], [D] chỉ bằng một phần

của các nồng độ [A’], [B’], [C’], [D’], tức là:

[A] = [A’]αA ; [B] = [B’] αB

trong đó αA, αB là các hệ số nhỏ hơn 1 là những đại lượng biểu thị ảnh hưởng của

các phản ứng phụ tới nồng độ của A, B, C, D, ... tự do.

Thay các nồng độ cân bằng [A], [B], ... trên vào hệ thức biểu diễn hằng số cân

bằng nồng độ của cân bằng trên, ta có:

9

n

B

m

A

q

D

p

C

n

B

m

A

m n

q

D

p

C

p q

n

B

m n

A

m

q

D

p q

C

p

m n

p q

c K' [A] [B]

[C] [D]

[A'] [B']

[C] [D]

[A] [B] ...

[C] [D] ... K

α α

α α = α α

α α = α α

α α = = (1.9)

Đại lượng K’ trong hệ thức (1.9) được gọi là hằng số cân bằng điều kiện, nó

không những phụ thuộc vào nhiệt độ, vào lực ion của dung dịch mà còn phụ thuộc

vào cả nồng độ của các chất khác tức là phụ thuộc vào điều kiện của dung dịch trong

đó cân bằng chính (a) được thiết lập. Các ví dụ cụ thể sẽ được trình bày trong các

chương sau.

Trong các phương pháp hóa học nói riêng cũng như trong tất cả các phương

pháp của phân tích nói chung, người ta thường nghiên cứu sử dụng các loại cân bằng

chính sau đây:

- Cân bằng axit - bazơ (hoặc cân bằng trao đổi proton)

- Cân bằng tạo phức.

- Cân bằng kết tủa.

- Cân bằng oxy hóa khử (hoặc cân bằng trao đổi electron).

Trước khi đi vào xét cơ sở lý thuyết của các loại cân bằng trên và ứng dụng của

chúng trong các phương pháp hóa học cũng như hóa lý của chúng, chúng ta hãy đề

cập đến nguyên tắc của các phương pháp hóa học: phương pháp phân tích khối lượng

và phân tích thể tích.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoàng Minh Châu, Từ Văn Mặc, Từ Vọng Nghi. Cơ sở hóa học phân tích,

NXB KH & KT, 2002.

2. Lê Đức, Hóa học phân tích. NXB ĐH Quốc Gia Hà Nội, 2002.

3. Nguyễn Tinh Dung phần I, II, III. Hóa học phân tích. NXB Giáo dục, 2000.

4. Trần Tứ Hiếu, Hóa học phân tích, NXB ĐHQG Hà Nội, 2002.

10

CHƯƠNG 2

ĐẠI CƯƠNG VỀ PHÂN TÍCH KHỐI LƯỢNG

VÀ PHÂN TÍCH THỂ TÍCH

2.1. Nguyên tắc chung của phương pháp phân tích khối lượng

Phương pháp phân tích khối lượng là phương pháp phân tích định lượng cổ

điển. Tuy phương pháp này ra đời đã lâu nhưng đến nay nó vẫn đóng vai trò đắc lực

trong các phương pháp xác định, nhất là để xác định chất có hàm lượng lớn và trung

bình trong mẫu phân tích. Phương pháp này có thể dùng để xác định hầu hết các

nguyên tố có độ chính xác và tin cậy cao.

Đây là phương pháp phân tích định lượng dựa vào kết quả cân khối lượng của

sản phẩm hình thành sau phản ứng kết tủa bằng phương pháp hóa học hay phương

pháp vật lý. Do chất phân tích chiếm một tỷ lệ xác định trong sản phẩm đem cân nên

dựa vào khối lượng của sản phẩm đem cân dễ dàng suy ra lượng chất phân tích trong

đối tượng phân tích.

Quá trình phân tích một chất theo phương pháp khối lượng:

- Chọn và gia công mẫu.

- Đưa mẫu vào dung dịch (phá mẫu) và tìm cách tách chất nghiên cứu khỏi

dung dịch (làm phản ứng kết tủa hay định phân).

- Xử lý sản phẩm đã tách ra bằng các biện pháp thích hợp (rửa, nung, sấy, ...)

rồi đem cân để tính kết quả.

Ví dụ: Để xác định magie, người ta tiến hành như sau:

Hòa tan mẫu phân tích trong dung môi thích hợp để chuyển toàn bộ lượng

magie vào dung dịch dưới dạng ion Mg2+. Chế hóa dung dịch bằng các thuốc thử

thích hợp để kết tủa hoàn toàn và chọn lọc ion Mg2+ dưới dạng hợp chất khó tan

MgNH4PO4. Lọc, rửa kết tủa rồi sấy và nung nó ở nhiệt độ thích hợp để chuyển hoàn

toàn thành hợp chất Mg2P2O7. Cuối cùng cân để xác định khối lượng của nó. Dựa

vào công thức của kết tủa và khối lượng vừa cân được sẽ tính được hàm lượng Mg

trong mẫu phân tích. Trong ví dụ này hợp chất MgNH4PO4 được kết tủa để tách định

lượng magie nên được gọi là dạng kết tủa còn Mg2P2O7 là hợp chất được tạo thành

sau khi nung dạng kết tủa và được cân để xác định hàm lượng của magie nên được

gọi là dạng cân. Phương pháp phân tích khối lượng magie như trên được gọi là

phương pháp kết tủa. Phương pháp kết tủa là phương pháp được sử dụng phổ biến

nhất trong phân tích khối lượng.

2.2. Giới thiệu về các phương pháp phân tích khối lượng.

2.2.1. Phương pháp đẩy.

Dựa vào việc tách thành phần cần xác định ở dạng đơn chất rồi cân.

Ví dụ: Xác định lượng vàng trong một hợp kim như sau: hòa tan hợp kim bằng

nước cường toan thành dung dịch. Đem chế hóa dung dịch đó bằng những thuốc thử

thích hợp rồi khử chọn lọc và định lượng vàng (III) thành vàng kim loại Au. Đem lọc

rửa kết tủa Au rồi sấy và nung đến khối lượng không đổi, làm nguội rồi cân.

2.2.2. Phương pháp kết tủa.

Trong phương pháp này ta dùng phản ứng kết tủa để tách chất nghiên cứu ra khỏi

11

dung dịch phân tích, thu lấy kết tủa, lọc, rửa, đem nung rồi cân kết quả.

Ví dụ: Khi cần phân tích lượng sắt (Fe) trong một dung dịch ta có thể dùng phản

ứng tạo kết tủa Fe(OH)3 bằng thuốc thử như NH3, lọc kết tủa Fe(OH)3, nung và cân ở

dạng Fe2O3, từ khối lượng Fe2O3 thu được ta dễ dàng tính được lượng Fe trong dung

dịch nghiên cứu.

2.2.3. Phương pháp điện phân

Người ta điện phân để tách kim loại cần xác định trên catốt bạch kim. Sau khi kết

thúc điện phân, đem sấy điện cực rồi cân và suy ra lượng kim loại đã thoát ra trên cực

bạch kim. Phương pháp này thường được dùng để xác định các kim loại trong môi

trường đệm pH = 7.

2.2.4. Phương pháp chưng cất

Trong phương pháp này chất đem phân tích được chưng cất trực tiếp hay gián

tiếp. Trong phương pháp chưng cất trực tiếp, chất đem phân tích được chuyển sang

dạng bay hơi rồi hấp thụ nó vào chất hấp thụ thích hợp. Khối lượng của chất hấp phụ

tăng lên một lượng tương ứng với chất đã hấp thụ vào.

Ví dụ: Khi cần phân tích CO2 trong đá vôi ta có thể phân hủy lượng cân mẫu

trong một dụng cụ riêng bằng axít rồi hấp thụ toàn bộ khí CO2 giải phóng ra vào chất

hấp thụ thích hợp như hỗn hợp CaO và NaOH hay Ba(OH)2. Cân khối lượng chất hấp

thụ trước và sau khi hấp thụ sẽ tính được lượng CO2 trong đá vôi. Trong phương pháp

chưng cất gián tiếp, người ta đun cho bay hơi hết chất cần phân tích. Ví dụ: Có thể xác

định hàm lượng nước kết tinh trong các loại muối bằng cách sấy dưới một nhiệt độ xác

định.

Nói chung phương pháp chưng cất không phải là phổ biến vì nó chỉ được áp

dụng khi mẫu phân tích có chứa chất bay hơi hoặc dễ dàng chuyển sang chất bay hơi.

Sau đây ta chỉ nghiên cứu 2 phương pháp chính, đó là phương pháp kết tủa và

phương pháp điện phân.

2.3. Phương pháp kết tủa.

2.3.1. Nội dung và yêu cầu của kết tủa trong phương pháp kết tủa.

Phương pháp kết tủa là phương pháp dựa vào việc cân sản phẩm tách ra bằng

phản ứng kết tủa. Trong phương pháp này người ta thực hiện một loạt các thao tác như

lọc, rửa, sấy, nung, ... Trong quá trình nung, thành phần của kết tủa có thể thay đổi. Vì

vậy người ta phân biệt 2 dạng: dạng kết tủa và dạng cân.

2.3.1.1. Yêu cầu của dạng kết tủa.

- Dạng kết tủa phải có độ tan nhỏ thì mới kết tủa được hoàn toàn chất cần xác

định. Thực tế cho thấy rằng đối với các kết tủa loại AB, ví dụ: BaSO4, AgCl, ... thì

tích số tan phải bé hơn 10-8 mới sử dụng được còn tích số tan lớn hơn 10-8 thì không sử

dụng. Chất phân tích được làm kết tủa một cách định lượng, ví dụ kết tủa tới 99,99%.

- Dạng kết tủa phải tinh khiết, tinh thể hạt to để khỏi lấp lỗ giấy lọc, giảm bớt

hiện tượng cộng kết và dễ lọc, rửa để có thể tách ra khỏi dung dịch một cách nhanh

chóng và thuận lợi nhất.

Kết tủa vô định hình và đặc biệt là lại đông tụ như Al(OH)3 có bề mặt tiếp xúc

lớn nên hiện tượng cộng kết ở đây rất lớn, khó rửa và lọc rất chậm. Trong một số

trường hợp, người ta có thể tạo điều kiện thích hợp để thu nhận được kết tủa tinh thể

hạt lớn.

12

- Dạng kết tủa phải dễ dàng chuyển sang dạng cân.

2.3.1.2. Yêu cầu của dạng cân

- Thành phần kết tủa sau khi sấy hoặc nung phải ứng đúng công thức định

trước.

Ví dụ: Al(OH)3 có dạng cân thường ngậm một số phân tử nước nên muốn

chuyển thành dạng Al2O3, ta phải nung đến nhiệt độ trên 11000

C. Trong trường hợp

này ta có thể chọn dạng kết tủa là các muối bazơ của nhôm để chuyển thành Al2O3

ngay ở nhiệt độ 6400

C hơn ở dạng Al(OH)3.

- Kết tủa thu được sau khi nung phải bền và ít hút ẩm, khó bị oxy hóa trong

không khí. Yêu cầu này cũng nhằm đảm bảo cho chất sau khi nung ứng với công

thức định trước. Ví dụ: Kết tủa CaO dễ dàng hấp phụ H2O và CO2 từ không khí,

thường người ta chuyển sang dạng CaSO4 bằng cách cho tác dụng với axit sunfuaric.

- Hàm lượng của chất cần phân tích trong dạng cân càng ít càng tốt. Như vậy

sẽ giảm được sai số hệ thống của kết quả phân tích. Ví dụ: Cùng một đại lượng về sai

số tuyệt đối, trong khi xác định Cr dưới dạng kết tủa BaCrO4 và Cr2O3 thì sai số về

lượng Cr tìm được trong BaCrO4 sẽ bé gấp 3,5 lần khi tìm ở Cr2O3. Ví dụ: Khi xác

định Cr, nếu mất đi 1mg kết tủa thì đối với dạng cân là Cr2O3 sẽ mất đi 0,7mg Cr còn

với dạng BaCrO4 chỉ mất 0,2mg Cr.

2.3.2. Điều kiện để tiến hành phân tích theo phương pháp kết tủa.

2.3.2.1. Thuốc thử.

Thuốc thử dùng trong phân tích khối lượng có thể là thuốc thử hữu cơ hay vô

cơ. Trong quá trình tạo kết tủa hiện tượng cộng kết xảy ra rất mạnh, trong số ion bị

cộng kết có cả ion của thuốc kết tủa mà khi rửa cũng không thể sạch hoàn toàn được.

Vì vậy cần chọn thuốc thử dễ bay hơi hoặc dễ phân hủy trong quá trình nung sấy. Ví

dụ: khi kết tủa Fe3+ dưới dạng Fe(OH)3 thì dùng NH4OH chứ không dùng KOH hay

NaOH, kết tủa Ba2+ thì dùng H2SO4 chứ không dùng Na2SO4 hay K2SO4. Ag+

thì

dùng HCl chứ không dùng NaCl. Nhưng nguyên tắc này không phải dùng lúc nào

cũng được. Ví dụ: kết tủa Cu(OH)2 người ta không dùng NH4OH bởi nếu thừa

NH4OH sẽ tạo phức [Cu(NH3)4]

2+ mà phải dùng KOH hay NaOH. Trong trường hợp

này cần phải rửa kết tủa cẩn thận.

Thuốc thử càng có độ chọn lọc cao càng tốt. Vì như vậy sẽ tránh được hiện

tượng các kết tủa khác cùng kết tủa theo kết tủa chính. Ví dụ: khi xác định ion Al3+

bằng NH4OH và cân dưới dạng Al2O3. Nếu có mặt Fe3+ thì cũng tạo Fe2O3. Do đó

trong trường hợp này người ta dùng Na2S2O3:

2Al3+ + 3S2O3

2- + 3H2O → 2Al(OH)3 + 3S + 3SO2

Lọc và rửa kết tủa (Al(OH)3 + S) rồi nung thì lưu huỳnh cháy hết còn Al2O3.

Ion Fe3+ trong trường hợp này không kết tủa mà bị khử tới Fe2+.

Lượng thuốc thử cũng đóng vai trò rất quan trọng trong phương pháp khối

lượng. Thực tế cho thấy rằng không tồn tại kết tủa nào mà lại hoàn toàn không tan

trong nước. Do vậy tích số tan luôn luôn lớn hơn 0. Từ đó ta thấy rằng không thể kết

tủa hoàn toàn bất kỳ một chất ít tan nào từ dung dịch. Trong phân tích định tính

người ta thấy rằng quá trình kết tủa được coi là hoàn toàn khi lượng ion cần xác định

còn lại trong dung dịch ít đến mức mà không thể dùng phản ứng nào để nhận ra

được. Tương tự như vậy trong phương pháp khối lượng quá trình kết tủa được coi là

13

hoàn toàn khi hàm lượng ion còn lại trong dung dịch không vượt quá 0,0002g. Thông

thường thì đối với các kết tủa có độ tan bé ta chỉ cần lượng thuốc kết tủa tương

đương với lượng tính theo phương trình phản ứng là đủ để thu được kết tủa hoàn

toàn. Khi kết tủa có độ tan không đủ nhỏ hoặc chất phân tích ở trong dung dịch khá

loãng, để đảm bảo kết tủa hoàn toàn ta cần tăng lượng thuốc kết tủa để làm giảm độ

tan của kết tủa. Có nhiều trường hợp việc tăng lượng thuốc kết tủa không những làm

giảm tính tan mà còn làm tăng tính tan theo hiệu ứng muối, sự tạo phức, muối axit

tan, do kết tủa là lưỡng tính ... Thường người ta dùng lượng thuốc thử dư gấp 1,5 lần

lượng cần thiết tính theo phương trình phản ứng.

2.3.2.2. Nồng độ thuốc thử.

Đối với kết tủa là dạng vô định hình hay tinh thể ta có yêu cầu về nồng độ khác

nhau.

- Kết tủa vô định hình:

Với kết tủa vô định hình thì tốt nhất là kết tủa từ các dung dịch đặc, nóng. Khi

làm kết tủa vô định hình ta cần chú ý đến xu hướng dễ tạo thành dung dịch keo của

chúng. Muốn làm đông tụ keo thì người ta cho thêm chất điện ly nào đó có ion khác

dấu với ion bị hấp phụ: các muối amonium hoặc các axit (nếu axit không làm tăng độ

hòa tan của kết tủa). Sau khi kết tủa xong để dễ lọc và giảm sự nhiễm bẩn do hấp

phụ, ta pha loãng dung dịch gấp đôi bằng nước cất nóng. Lúc này cân bằng hấp phụ

sẽ bị phá và một phần ion bị hấp phụ sẽ lại rời bề mặt kết tủa để đi vào dung dịch.

Kết tủa thu được sẽ chắc, ít bị nhiễm bẩn. Sau khi làm kết tủa phải lọc và rửa ngay

chứ không nên để lâu, để lâu là bất lợi vì trong một số kết tủa có thể bị đặc quánh lại

không rửa sạch được. Ngoài ra khi làm kết tủa vô định hình ta thường dùng các dung

dịch kiềm cho nên kết tủa sẽ bị nhiễm bẩn các chất khó bay hơi. Ví dụ SiO2 từ thủy

tinh lẫn vào.

- Kết tủa tinh thể

Với kết tủa là tinh thể, để có kết tủa lớn hạt ta phải làm giảm độ quá bão hòa

của dung dịch bằng cách kết tủa từ dung dịch loãng. Để tăng độ tan S của kết tủa

trong quá trình kết tủa người ta tăng nhiệt độ hay thêm chất nào đó để tăng độ tan.

Sau khi kết tủa xong cần làm muồi kết tủa bằng cách ngâm một thời gian kết tủa vào

trong nước cái để thu được kết tủa có kích thước lớn, đồng đều, dễ lọc, dễ rửa. Nói

chung để thu được kết tủa tinh thể phải tuân theo 5 nguyên tắc (xem trang 129). Cơ

chế của quá trình làm muồi kết tủa tinh thể như sau:

Vì tinh thể lớn có độ hòa tan bé nên dung dịch bão hòa đối với tinh thể lớn vẫn

chưa bão hòa đối với tinh thể bé nên tinh thể bé phải tan ra. Lúc này dung dịch lại

thành quá bão hòa đối với tinh thể lớn và chất tan lại bám lên bề mặt tinh thể lớn.

Bây giờ dung dịch lại thành chưa bão hòa đối với tinh thể bé do đó tinh thể bé lại tiếp

tục tan ra. Nhiệt độ tăng sẽ làm tăng tốc độ làm muồi kết tủa. Sau khi làm muồi ta

được không những một kết tủa dễ lọc mà còn tinh khiết hơn. Đối với các loại kết tủa

keo kị nước thì hiệu quả này không rõ lắm và trong vài trường hợp còn cho kết quả

xấu. Ví dụ người ta xác định được là lượng các ion Co2+, Ni2+, Zn2+ bị kết tủa

Fe(OH)3 kéo theo sẽ tăng dần theo thời gian. Điều đó có nghĩa là đã có sự hình thành

dần những hợp chất hóa học (các ferit) giữa hydroxyt sắt và các cation kể trên. Để

giảm sự hao hụt do tính tan, trước khi lọc người ta thường làm lạnh để làm giảm tính

14

tan của kết tủa.

2.3.2.3. Lượng chất phân tích.

Lượng cân chất lấy để phân tích phải không quá nhỏ hoặc quá lớn. Lượng cân

lớn quá sẽ thu được quá nhiều kết tủa và gây khó khăn cho việc lọc, rửa, nung. Trái

lại lượng cân quá nhỏ thì dung dịch sau khi phá mẫu khá loãng và có thể khó tách

hoàn toàn chất cần phân tích, do đó kết quả phân tích sẽ khó chính xác. Theo Tanan￾aep lượng cân phải lấy thế nào để cho lượng cân kết quả phân tích vào khoảng

0,01đương lượng gam đối với kết tủa là tinh thể và 0,005 đương lượng gam đối với

kết tủa là vô định hình.

2.3.2.4. Nhiệt độ.

Đối với kết tủa tinh thể thì việc đun nóng có tác dụng làm tăng độ tan, làm giảm

độ quá bão hòa tương đối và giảm được số trung tâm kết tinh ban đầu, tạo được kết

tủa tinh thể to hạt.

Đối với kết tủa vô định hình, việc đun nóng giúp đông tụ và làm to hạt.

Đối với kết tủa có độ tan tăng khi đun nóng thì trước khi lọc phải làm nguội và

phải rửa bằng nước rửa nguội. Đối với kết tủa keo có độ tan bé như Fe(OH)3 thì phải

lọc nóng và rửa bằng nước rửa nóng để tránh sự pepti hóa.

2.3.3. Lọc, rửa, làm khô và nung kết tủa.

2.3.3.1. Lọc kết tủa.

Khi lọc người ta thường dùng giấy lọc không tàn là giấy lọc đã được làm sạch

gần hết các chất vô cơ bằng cách rửa với HCl và HF. Khi cháy chúng chỉ để lại một

lượng tro không đáng kể, lượng này đã được ghi ở vỏ bọc các gói giấy lọc không tàn.

Giấy lọc không tàn có nhiều loại dày mỏng khác nhau ứng với kích thước của các

phần tử kết tủa cần lọc. Ví dụ muốn lọc các kết tủa keo vô định hình rất khó lọc thì

ta nên dùng giấy lọc mỏng nhất, chảy nhanh như giấy băng đỏ hay đen. Muốn lọc đa

số các kết tủa khác thì dùng loại giấy trung bình (băng trắng) và cuối cùng muốn lọc

những kết tủa rất bé hạt như BaSO4 hoặc CaC2O4 thì nên dùng loại giấy dày nhất

(băng xanh).

2.3.3.2. Rửa kết tủa.

Mục đích rửa kết tủa là đuổi hết chất bẩn, kể cả dung dịch nước cái dính ở kết

tủa.

Thành phần nước rửa: có 4 trường hợp

- Rửa bằng dung dịch thuốc kết tủa: Chỉ trong những trường hợp hiếm có khi

độ hòa tan của kết tủa là rất bé ta mới phải bỏ qua biện pháp này. Khi rửa kết tủa ta

cần phải cho thêm vào nước rửa một ion của kết tủa, ví dụ dùng một dung dịch

loãng của thuốc kết tủa để rửa. Vì tích số hoạt độ các ion là hằng số nên khi tăng

nồng độ của một ion trong dung dịch thì độ hòa tan của kết tủa sẽ giảm đến mức có

thể bỏ qua được. Tất nhiên là ion thêm vào đó (hoặc một chất điện giải nào khác có

chứa ion của kết tủa) phải là một chất dễ bay hơi để khi nung ta có thể đuổi nó ra hết

khỏi kết tủa.

- Rửa bằng dung dịch chất điện ly: Muốn ngăn ngừa hiện tượng hóa keo ta

không nên rửa kết tủa bằng nước cất mà nên dùng dung dịch loãng của một chất điện

ly nào đó. Lúc bấy giờ các ion bị hấp phụ trước sẽ bị rửa sạch và kết tủa sẽ lại hấp

phụ các ion của chất điện ly đã dùng để rửa, ở đây có sự hấp phụ thay thế. Chất điện

15

ly phải dễ bay hơi hay muối amônium.

- Rửa bằng chất ngăn được kết tủa khỏi thủy phân: Ví dụ kết tủa MgNH4PO4

là một chất có sản phẩm thủy phân là NH4OH:

MgNH4PO4 + H2O MgHPO4 + NH4OH

nên sẽ được rửa bằng một dung dịch amoniac loãng.

- Rửa bằng nước: Trong những trường hợp kết tủa không bị mất do độ hòa

tan cũng không tạo được dung dịch keo và không bị thủy phân thì có thể dùng nước

cất để rửa kết tủa.

Trong đa số trường hợp nước rửa cần phải được đun nóng vì như vậy sẽ làm

giảm được hệ số nhớt và các dung dịch nóng sẽ lọc nhanh hơn.

Kỹ thuật rửa:

Trước hết rửa bằng cách lắng và chỉ khi gần sạch ta mới rửa kết tủa trên giấy

lọc. Cái lợi của cách rửa này là kết tủa dễ trộn lẫn với nước rửa và đồng thời các

phần tử kết tủa lại không bít lỗ giấy lọc. Thường ta rửa bằng cách lắng độ vài lần rồi

mới chuyển toàn bộ kết tủa lên giấy lọc. Đây là lúc quan trọng nhất: Nếu đánh mất

một giọt chất lỏng là kết quả phân tích có thể bị hỏng.

2.3.3.3. Làm khô và nung kết tủa.

Sau khi rửa, đậy phễu bằng một tờ giấy lọc để giữ cho kết tủa tránh khỏi bị bụi

và tránh được chuyển động của không khí, đặt phễu vào tủ sấy khoảng 20 – 30 phút

ở nhiệt độ khoảng 90 – 1050

C. Sau đó đem nung trong chén sứ hoặc chén bạch kim

đến khối lượng không đổi.

Kỹ thuật nung:

Dùng đũa thủy tinh có đầu nhọn kéo giấy lọc ra khỏi phễu, gấp mép giấy thế

nào để kết tủa tản ra xung quanh giấy rồi đem bỏ vào chén, cho đỉnh nhọn quay lên

trên và nung cho đến khi có trọng lượng không đổi. Nếu dùng lò điện thì trước hết

phải đốt giấy lọc ở đèn (hoặc ở bếp điện) và chỉ sau khi hết khói mới bỏ vào lò nung.

Sau khi nung xong (khoảng 30 phút) cho chén vào bình làm khô (bình hút ẩm) để

chén khỏi hấp thụ hơi nước trong không khí và khỏi tăng trọng lượng. Không nên

đậy bình ngay mà phải để sau vài phút hãy đậy vì nếu không thì khi chén nguội trong

bình sẽ có khoảng chân không và ta khó mở nắp bình.

2.4. Phương pháp điện phân.

2.4.1. Nội dung.

Điện phân là phương pháp dựa vào việc cân để xác định khối lượng kim loại

thoát ra trên điện cực bạch kim dưới tác dụng của dòng điện. Phương pháp điện phân

thường dùng để xác định một số kim loại trong các hợp kim. Phương pháp này được

coi là phương pháp chính xác để xác định một số nguyên tố như Ni, Cu, Zn, Cd, và

Pb trong hợp kim.

2.4.2. Các thiết bị.

2.4.2.1. Điện cực:

Thường là điện cực bạch kim được chế tạo theo nhiều kiểu khác nhau. Catôt

thường là lưới đan bằng sợi bạch kim có hình trụ. Anôt có thể là lưới hoặc dây xoắn

bạch kim. Trong một số trường hợp người ta còn dùng điện cực bạch kim ở dạng bát

đĩa bạch kim. Ngoài ra còn dùng các điện cực bằng Ni, Ag, Au, ... (hình 2.1)

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!